Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Vẻ Đẹp Của Sông Hương Qua Góc Nhìn Địa Lý Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Của Hoàng Phủ Ngọc Tường # Top 18 Xem Nhiều | Xsye.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Vẻ Đẹp Của Sông Hương Qua Góc Nhìn Địa Lý Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Của Hoàng Phủ Ngọc Tường # Top 18 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Vẻ Đẹp Của Sông Hương Qua Góc Nhìn Địa Lý Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Xsye.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp của sông Hương qua góc nhìn địa lý trong Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đến bài văn mẫu hay nhất. Qua đó giúp các bạn học sinh có thêm nhiều tư liệu tham khảo nhanh chóng biết cách viết bài văn hay.

Đề bài:

Cho đoạn trích:

“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tân nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim như đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác trăm qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.

(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam)

Phân tích vẻ đẹp sông Hương qua góc độ địa lý trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Vẻ đẹp sông Hương qua góc độ địa lý hay nhất

Xứ Huế mộng mơ là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn cho biết bao nghệ sĩ tài năm của nền văn học Việt Nam để rồi khi trưởng thành, họ quay lại, góp tiếng nói của mình làm giàu đẹp quê hương. Những lần Tố Hữu về thăm Huế là những chuyến đi của máu trở về tim. Về lần đầu tiên, ông viết:

(Đường vào)

và sau đó bao giờ cũng da diết:

(Bài ca quê hương)

Sông Hương là không chỉ là một biểu tượng mà còn là niềm tự hào của người dân xứ Huế. Cũng là người con cố đô, Hoàng Phủ Ngọc Tường góp vào văn hoá xứ sở những trang bút kí đặc sắc viết về dòng sông Hương quê mình, tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm có đoạn: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về…những vấn vương của một nỗi lòng.” thể hiện vẻ đẹp dịu dàng của con sông qua góc nhìn địa lý. Từ đó ta cũng thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và có sở trường chuyên về bút ký. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. Bút ký đặc sắc “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết ngày 4/1/1981 tại Huế và in trong tập sách cùng tên.

Sau khi ngược tìm về cội nguồn Hương giang, tác giả xuôi theo dòng chảy để khám phá dòng sông qua góc nhìn địa lý. Vượt qua những chặng khác nhau, sông Hương về được với mảnh đất của mình. Điều đầu tiên tác giả muốn cho người đọc thấy nét thay đổi của sông Hương khi gặp kinh thành Huế là nó vui tươi hẳn lên “giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc”. Đó là quy luật tình cảm tất yếu. Có ai từng quá nửa hành trình trong cuộc đời mình đi tìm một người tình trong mộng với bao gian nan, vất vả giờ đây khi gặp được chủ nhân của lòng mình lại không vui hay sao? Chính điểm vui tươi của một người con gái trong tình yêu là thời gian đẹp nhất. Hai chữ “yên tâm” trong đoạn văn chính là cảm giác của Hương giang khi tìm được tình yêu đích thực của mình. Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố Huế, Hương giang lại hiện ra với những đường cong mềm mại, thướt tha, duyên dáng, quen thuộc như vốn có. Nó đang uốn lượn trước mắt, đang làm duyên làm dáng với người tình:“Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.” Sông Hương hiện lên không chỉ là dòng địa lý vô tri vô giác, người con gái Hương giang bây giờ thật dịu dàng, nhẹ nhàng và e thẹn mang chút ngập ngừng của khi nhận được sự yêu thương. Tiếng “vâng” thẹn thùng này cho ta nhớ đến những câu thơ của Hoàng Mai:

Tình yêu thật kì diệu. Những khoảng lặng e ấp sao mà đáng yêu đến thế. Và nàng Hương giang khi được ở bên xứ Huế đã nữ tính càng thêm dịu dàng, vừa mạnh mẽ, phóng khoáng ở đại ngàn lại trở lên e thẹn và duyên dáng. Nghệ thuật nhân hóa khiến cho sông Hương trở nên gần gũi như con người và mảnh đất cố đô nơi này.

Qua góc nhìn địa lý để miêu tả Hương giang khi chảy qua lòng thành phố Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng cảm quan của một người nghệ sĩ: một người họa sĩ kiêm một nhạc sĩ. Dưới con mắt của hội họa, Hương giang hiện lên mang vẻ đẹp của cố đô, vẻ đẹp của Việt Nam. Tác giả hướng tới cái nhìn xưa cũ của “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít”, của những ánh lửa thuyền chài lập lòe. Không chỉ gợi nên bằng đường nét, sông Hương còn được gợi nên với màu sắc. Điều này khiến cho Huế mang một vẻ đẹp riêng mà không một thành phố hiện đại nào có được. Qua bàn tay của người nghệ sĩ tài ba, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn gợi nên dòng sông Hương với đầy đường nét quyến rũ, sắc màu hài hòa, màu biêng biếc của hàng cau, bóng trúc, lung linh trong trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trên sông và đặc biệt là cây cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non. Phải là người yêu quê hương, yêu dòng sông Hương, yêu mảnh đất Huế đến nhường nào thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết lên được áng văn lay động lòng người đến vậy.

Nếu qua hội hoạ, sông Hương mang vẻ đẹp cố đô, vẻ đẹp của văn hoá, con người thì qua lăng kính của âm nhạc, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, rất chậm rãi, sâu lắng, trữ tình. Có lẽ không một ai đến Huế mà không yêu điệu chảy lững lờ của sông Hương. Thi sĩ Thu Bồn trong “Tạm biệt” cũng từng tha thiết trước điệu chảy ấy:

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thật tinh tế khi nhận ra cái đặc trưng của Hương giang. Để minh chứng cho sự “thực chậm”, tác giả đã so sánh với lưu tốc của dòng sông Nê-va “cuốn trôi những đám băng lô xô”. Những “con tàu thuỷ tinh” chở hải âu đi nhanh đến nỗi “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”. Càng gắn bó, càng khám phá, cảm nhận, nhà văn càng “thấy quý điệu chảy lặng lờ” của sông Hương. Phải chăng vì chỉ lặng lẽ chảy “cơ hồ như mặt hồ yên tĩnh” nên những vẻ đẹp xứ sở còn lắng đọng mãi, tích tụ thành những vỉa phù sa văn hoá đầy ắp nơi cố đô, để ta không phải tiếc như “một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh”. Dòng chảy chầm chậm của Hương giang còn được cảm nhận qua thị giác khi “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.

Điệu “slow” của sông Hương đặc biệt bởi nó được lý giải, được tạo nên từ yếu tố địa lý thực tế và liên tưởng phóng tác của tác giả. Sông Hương khi vào đến kinh thành Huế, nếu giải thích về mặt địa lí thì do các chi lưu nhỏ dẫn nước của con sông đi khắp các biền bãi và với hai hòn đảo nhỏ trên sông làm cho lưu tốc của dòng nước chậm hẳn lại. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu xứ Huế, yêu sông Hương, bởi vậy ông còn đặt cảm con tim của mình, đứng trên góc độ là người con xứ sở để giải thích. Sông Hương chảy chậm, điệu nhảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời ra. Khi gặp người yêu, gặp chủ nhân của lòng mình thì có ai muốn nỡ rời xa, bởi khi ấy mỗi giây phút đều đong đầy yêu thương nên ai cũng muốn thời gian như ngừng lại để níu giữ lấy tình yêu. Đó là tình cảm của sông Hương dành cho thành phố Huế và cũng là tình cảm của tác giả dành cho dòng sông Hương, cho mảnh đất cố đô này. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng phải chăng đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.

Qua đoạn trích trong tác phẩm, ta đã thấy được phần nào vẻ đẹp quyến rũ, gợi cảm của Hương giang. Đối với mỗi người chắc rằng sông Hương sẽ “gợi cảm” theo một cách khác nhau. Thành công của đoạn trích cũng thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phong cách nghệ thuật được hiểu là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong các sáng tác của nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. Phong cách văn học có dấu hiệu riêng và nổi lên trên bề mặt của tác phẩm như một thực thể hữu hình , mà yếu tố cơ bản là nội dung và hình thức tác phẩm. Chỉ có ở những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo. Viết về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về mọi mặt: văn hóa, lịch sử, địa lí,… Nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông. Kết hợp với đó, chất trữ tình, chất thơ toát ra từ những từ ngữ, câu văn, những hình ảnh đẹp. Đó là cảnh mờ nhòe lung linh trên sông nước, là cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”.

Advertisement

Như vậy, đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích chính là phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua góc nhìn địa lý, tác giả đã thổi hồn vào dòng sông, ghi lại chân thực những vẻ đẹp đa chiều, thơ mộng của nó. Đoạn trích nằm trong mạch viết miêu tả sông Hương trong thủy trình từ thượng lưu về thành phố Huế rồi đổ ra biển, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận dòng sông từ nhiều không gian và thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà văn đã phát hiện ra những vẻ đẹp riêng, độc đáo, mới lạ và thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc về con sông đã trở thành biểu tượng của Huế. Từ mỗi góc nhìn, qua giọng điệu thiết tha, say đắm trong mỗi trang văn, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra tình cảm yêu mến, gắn bó sâu nặng và cả niềm tự hào của nhà văn về vẻ đẹp của sông Hương, vẻ đẹp tự nhiên và mang đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.

Trước khi có “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Hương giang vốn dĩ vẫn chảy, vẫn đẹp, vẫn thơ mộng. Thế nhưng dường như phải đến bút ký này của Hoàng Phủ Ngọc Tường ta mới thấy được sông Hương một cách toàn diện nhất, sâu sắc nhất, huyền bí nhất. Và ta cũng dần dần nhận ra Huế đang có thêm một người kể chuyện cho văn hóa quê hương xứ sở. Đó là một người kể chuyện rất mực say mê, rất mực tài hoa. Để rồi từ đó cho mãi đến về sau này, nhắc về xứ Huế hình ảnh đại diện sẽ là sông Hương, nhắc về sông Hương là sẽ nhớ đến “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Bài Người Lái Đò Sông Đà Của Nguyễn Tuân Dàn Ý & 27 Bài Văn Mẫu Lớp 12 Hay Nhất

Phân tích Người lái đò sông Đàcủa Nguyễn Tuân tuyển chọn 27 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.

I. Mở bài:

Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.

Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.

II. Thân bài:

* Khái quát chung

– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

* Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông

+ Bờ sông

“dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.

Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.

“Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.

Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

→ hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

+ Ghềnh

ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”.

Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây.

Được miêu tả như những kẻ sẵn sàng đòi nợ

→ Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

+ Hút nước

Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.

Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.

“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.

→ Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

+ Thác nước

Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.

“Thế rồi nó rống lên”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

→ sự giữ dội của nước sông.

+ Đá

“cả một chân trời đá” → đá sông Đà nhiều vô kể.

từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.

Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

→ sông Đà giống như kẻ thù số một của con người

* Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.

Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.

Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”.

So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

→ Những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ.

* Đánh giá

– Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo → đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

III. Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

…………..

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Trước cách mạng tháng 8 tên tuổi của ông được biết đến thông qua tác phẩm “Vang bóng một thời”, “Một chuyến đi”,…Sau cách mạng tháng 8, ông chuyển sang thể loại tùy bút và thành công nhất ở thể loại này chính là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ ở hình tượng con sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ.

Người lái đò sông Đà là một thiên tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Đó là kết quả của nhiều dịp đi và viết về Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp của ông. Tác phẩm là một thiên tùy bút mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người nghệ sĩ tài hoa đã dùng cây bút của mình để khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.

Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề từ: “đẹp vây thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Như vậy nhà văn đã ngầm thông báo với bạn đọc về hai đặc điểm của con sông với nét tính cách đối nghịch: dữ dội, hiểm ác – kiều diễm, thơ mộng. Dưới con mắt của bậc du tử luôn khát tìm sự lạ hóa, thiên nhiên sông Đà như một bản thể có tâm tính phức tạp. Thoạt tiên ta có thể nhận thấy tính chất hùng vĩ, dữ dội hiểm ác của con sông Đà.

Theo Nguyễn Tuân có lẽ đây là con sông lắm thác ghềnh, vực xoáy, vô cùng nguy hiểm cho con người. Mùa lũ đến, nó “ác như người dì ghẻ”, dữ dằn như con quái vật, trở thành “kẻ thù số một” của con người. Chất hùng vĩ của con sông Đà được hiện lên trước hết ở cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành. Những bức thành vách đá chẹt lấy lòng sông hẹp. Độ hẹp của lòng sông được nhà văn xoay ngắm đủ các giác độ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”,…thật thú vị. Một sức hút bình thường làm sao có nổi sự so sánh vừa chính xác, vừa tinh tế vừa phong phú, vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến kiệt cùng cái khó ngôn ngữ muôn màu sắc để đem đến cho người đọc không chỉ cảm nhận bằng thị giác, cảm giác mà cả những tưởng tượng thú vị. Cái khủng khiếp, dữ dội và hiểm ác của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân đặc tả ở những quãng mặt ghềnh Hát Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn,..rồi tiếp đến là những hút xoáy nước “Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn…sâu như tiếng bê tông thả xuống”, “Tiếng nước thở và kêu như cống cái bị sặc”. Chưa dừng lại ở đó Nguyễn Tuân tiếp tục tìm cho ra cảnh tượng gây được ấn tượng mạnh cho đọc giả. Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên,…nghe như oán trách rồi lại như van xin…Thế rồi nó bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng,..”. Nếu như ở đoạn trên nhà văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để diễn tả sự khủng khiếp mà đầy lý thú của những xoáy hút nước thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu bằng những tiếng nỉ non của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như chế nhạo, khiêu khích. Thế rồi bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn độn tất cả các loại âm thanh của núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói cho tận cùng tình dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc đến khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy sở thích. Dường như từ ngàn xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết giữa và hậu vệ, có cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết cả thách thức. Phối hợp với đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện cho đá, có khi liều mạng sóng nước ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng lật ngửa đánh đòn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống dậy một con sông. Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao – rộng, trên bề mặt – dưới lòng sâu, đào xới đến tận cùng bản chất dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà – con thủy quái – kẻ thù số một của con người.

Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà bên cạnh sự hùng vĩ, dữ dằn của con sông, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, Nguyễn Tuân không bằng lòng với những tri thức hời hợt, quen nhàm mà luôn dồn hết tâm huyết, dựng công khó nhọc tìm tòi mang đến cho người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con sông, một vùng đất giàu giá trị vàng với những trang văn dạt dào cảm xúc. Đây là đoạn văn không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá, sông Đà ở đoạn này hiền hòa và thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân bỗng đổi giọng dạt dào, tha thiết, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang được cùng Nguyễn Tuân bồng bềnh trên máy bay rà “từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”, thấy Tổ quốc thật bao la. Để từ đó bậc du tử vảy bút vẽ một bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Thật không còn so sánh nào đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với áng tóc của một mĩ nữ.

Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng “mùa xuân dòng xanh màu xanh ngọc bích”, qua ánh nắng mùa thu “sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này cho thấy sự tài hoa của bậc du tử khi miêu tả sắc nước sông Đà.

Là cây bút suốt đời tìm kiếm và khám phá cái đẹp, Nguyễn Tuân cùng với các đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc để tìm cho ra “cái thứ vàng mười” của núi sông Tây Bắc.

Trên sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu quy luật của dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử luồng sinh, thông minh gan dạ, hoạt bát tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái. Vẻ đẹp ngoại hình của người lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa đã ngoài bảy mươi, đầu tóc bạc trắng, thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “lêu nghêu như cái sào”. Cặp mắt tinh anh với nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực nổi lên một số thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò là một “tay lái tài hoa” từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Ông là một nhân vật không tên bởi ông là đại diện cho bao con người trên khắp đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm cần mẫn trong lao động, không ngừng đối mặt với những thiên tai, địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương đất nước. Chính bởi vậy mà hình tượng người lái đò càng trở lên lớn lao và kì vĩ.

Vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa trong ba lần thủy chiến. Cuộc giao tranh giữa một bên là chiếc thuyền con én cùng một con người nhỏ bé, mong manh đơn độc với một bên là gần trăm con thác dữ lớn nhỏ được ví như con quái vật khổng lồ tâm địa hiểm ác đại diện cho sức mạnh kỳ vĩ, dữ dội của thiên nhiên. Cuộc chiến diễn ra không cân sức nhưng hình ảnh người lái đò tay vẫn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, hiên ngang, ngoan cường, bình tâm xử lí tình huống một cách dũng cảm, mưu trí, quyết liệt, táo bạo trước con quái vật nanh ác và giành được chiến thắng. Để miêu tả cuộc giao tranh đầy cam go, quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã tung ra vốn kiến thức uyên bác về địa lí, lịch sử và vốn ngôn ngữ thuộc các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự kết hợp với các thủ pháp nhân hóa, so sánh liên tưởng khôn lường, bất ngờ để cống hiến cho người đọc những trang văn, những bức tranh thủy chiến, những cảnh quay sống động bằng nghệ thuật ngôn từ đầy tài hoa, kì thú và hấp dẫn.

Cuộc giao chiến lần một sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, đó là chân trời đá. Đá ở con thác này mai phục hàng ngàn năm, chúng ngỗ ngược đứng, nằm, ngồi tùy sở thích, biết bày binh bố trận như binh pháp Tôn Tử. Gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử, một cửa sinh chia làm ba tuyến: tiến, trung, hậu vệ…đòi ăn chết con thuyền đơn độc nhưng ông lái vẫn nhớ mặt từng đứa. Khi thạch trận bày xong, có sự phối hợp của nước thác, sóng thác. Nước hò la vang dậy làm thanh viện cho đá. Đá oai phong lẫm liệt, tiến lùi thách thức. Sóng nước như quân liều mạng đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, lại như đòi túm lấy thắt lưng ông lái dò mà lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt đánh đòn hiểm độc nhất. Song ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra khỏi trận địa sóng. Sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vô cùng thâm hiểm nhưng ông đò cố nén những vết thương, kiên cường vượt qua cơn hỗn chiến.

Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người. Miêu tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mới mẻ, lo âu và đầy kiêu hãnh như chính mình là người trong cuộc.

Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả cuộc giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liên xô ra định níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần sông thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho Đà giang hung dữ, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì cương lái như bám chặt vào sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ, ông không dùng “ghì tay lái” mà “ghì cương lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng điều khiển con chiến mã tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để chiến thắng, ông lái đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.

Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi thạch trận thứ ba này, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của ông đò càng hết sức mong manh. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của ông lái. Ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi chiến thắng vinh quang. Thác dữ không chặn bắt được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người chiến thắng. Sức mạnh thần thánh của tự nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự hung hãn của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như chính ông lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao độ động bình thường giản dị mà rất đỗi phi thường.

Con sông Đà hung dữ là vậy ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông đến với nó như đến với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó, lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác dữ. Đó thực là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.

Có thể nói, thiên tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác trong cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh, phương diện thẩm mĩ, văn hóa. Dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hóa, người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,…huy động kiến thức nhiều lĩnh vực: địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,..Tất cả đã tổng hợp, tựu chung lại làm nổi bật vẻ đẹp một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng cùng với đó là vẻ đẹp hình tượng người lao động rất đỗi bình dị mà kì vĩ, lớn lao.

Khép lại tùy bút sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho độc giả bức tranh về thiên nhiên sông nước hùng vĩ, dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Hiện lên trong bức tranh đó là hình ảnh con người lao động trí dũng tài hoa của thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập “Vang bóng một thời” và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành những công trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách thành”. Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại càng cảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sông ấy, mặt sông thường “đúng ngọ” mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia”. Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví như động từ “chẹt”, nó giống như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.

Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc họa đậm nét ở mặt ghềnh Hát Loóng. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu nhưng từ “xô” được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó “gùn ghè”, hầm hè y như những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.

Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái “hút nước” khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống “như những cái giếng bê tông” được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông.

Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đầy hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước như có lúc đang “oán trách”, có khi lại “van xin” hay lại đầy “khiêu khích”. Có lúc nó lại rống lên như “một ngàn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”… Tác giả đã dùng nhiều tính từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” đầy độc ác, nguy hiểm.

Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa của dòng sông như mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng “như một cố nhâ”. Ông còn thấy được dòng sông mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.

Bên cạnh hình ảnh con sông Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy đã được khắc họa một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái dòng sông đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể vượt qua được ma trận với những vòng thách đấu với dòng sông. Trước cái “thạch trận” ấy, ông lái đò vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ông vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặc dù mặt nước có hò reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước thì như những “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Mặc dù nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và rồi dù có bị thương đến mức “mặt méo bệch đi” thì ông vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.

Qua truyện ngắn “Người lái đò sông Đà” tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao… Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại. “Người lái đò sông Đà” thực sự là một tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dòng sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây.

“Người lái đò sông Đà” là một bút ký đặc sắc đầy sáng tạo và tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám. Một nhà văn tài hoa, uyên bác, không quản ngại gian lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, có sức liên tưởng phong phú khiến cho người đọc người nghe muốn được hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.

Có thể nói trong nghệ thuật, đến với Nguyễn Tuân đó là đến với sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo, bởi chính ông là người sáng tạo lại thế giới. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường, giản đơn. Cho nên ông đi theo “chủ nghĩa xê dịch” và lấy nó làm đề tài cho các tác phẩm của mình, phải đi thì mới có thể viết lên những tác phẩm có giá trị được.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của cuộc hành trình ngược về miền Tây Bắc trong giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả và được in lần đầu trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Dòng sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước thì chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm này đã tạo cho con sông một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ dằn mà trữ tình, thơ mộng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, đầy nghệ sĩ của ông lái đò trên dòng Đà giang.

Trên thực tế, hình ảnh con sông Đà cũng đã được nhiều nhà văn, nhà thơ chọn làm đề tài và khắc họa lên vẻ đẹp của nó, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà ấy mới hiện ra chân thực và đầy những điều mới mẻ mà chưa từng có ở bất kỳ một tác phẩm nào. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên với vẻ vừa hung bạo, dữ dội nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang một tâm địa xảo quyệt, mưu mô của thứ kẻ thù số một, tất cả như muốn cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” mà chúng bày ra. Không dừng lại ở đó, nước ở con sông Đà này cũng “ reo như đun sôi lên một trăm độ… vẫn mai phục hết trong lòng sông ”. Nguyễn Tuân còn miêu tả một cách sống động rằng có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng lại “ nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung hãn, dữ tợn kinh người trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin. Tác giả còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông lúc ở những đoạn xuôi dòng, không những thế ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng bỗng trở lên mềm mại, uyển chuyển và mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “ Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Với việc so sánh dòng sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, tác giả đã phác họa dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm, thướt tha của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ dùng chữ “áng” để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân lại dùng nó để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con sông Đà ấy giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.

Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình, ngay cả ở màu nước cũng mang một vẻ đẹp riêng. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những thời điểm và không gian khác nhau. Vào mùa xuân thì dòng nước xanh như ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Nhưng khi thu sang nước sông lại chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả cụ thể từng chi tiết với những so sánh độc đáo con sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đó mới thấy được sự hiểu biết sâu rộng cùng khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

Cũng chính trong cái vẻ hung tợn, dữ dằn và cái đẹp đầy trữ tình, thơ mộng ấy của đất trời thiên nhiên, thì hình ảnh ông lái đò xuất hiện thật dữ dội, phi thường giống như một người nghệ sĩ. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu cam go “một mất, một còn” với những cái thác nước hung dữ, lúc này Nguyễn Tuân cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền của mình một cách chủ động và thuần thục giống như một người nghệ sĩ. Với đoạn văn miêu tả cận cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp, thật oai hùng: “ Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy ”. Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện lại khung cảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng, du dương không chệch một nốt.

Hình ảnh của người lái đò ấy dường như cũng chính là sự hiện thân của tác giả. Với Nguyễn Tuân thì ông không thích những thứ cũ mèm, tầm thường, giản dị thì với người lái đò cũng vậy, ông cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm, đầy kịch tích với thác nước dữ dội mà chẳng ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả, bình lặng.

Thành công của Nguyễn Tuân đó là sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập trong cùng một sự vật, điều này là một sự mới mẻ đầy sáng tạo. Con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, nó là một kẻ thù nhưng đồng thời cũng chính là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tài hoa của tác giả, con sông không chết cứng mà nó vẫn vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ, câu văn gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan của người đọc. Sự xuất hiện của ông lái đò cũng thế, hiện lên một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo. Đối với Nguyễn Tuân mà nói thì “ đã là văn thì trước hết phải là văn ”. Đã là văn thì đầu tiên là phải đẹp, phải trau chuốt. Và cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh thiên nhiên và con người lúc này đây đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu thông qua ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân.

Có thể nói tác phẩm tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển mình lớn trong phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, ông luôn đi tìm đề tài cho tác phẩm của mình bằng cách quay về với quá khứ, ông luôn viết, tìm hiểu về một thời vang bóng đã qua. Qua đó, người đọc có thể dễ dàng nhìn thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân đó là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang mang khí phách của kẻ “ nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” ấy là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều là những khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân lại tìm thấy cái chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi, thân thuộc ở ngay chính những công việc bình thường mà họ đang làm.

Với “Người lái đò sông Đà” thì ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như một người nghệ sĩ tài hoa, trí dũng song toàn. Qua đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục, lòng biết ơn những con người đã góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc phác họa lại vẻ đẹp của sông núi Tây Bắc cùng với hình ảnh của người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp những hiểu biết, những kiến thức của mình từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh, … Tất cả mọi cảnh vật, mọi sự việc như hiện lên trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Tác giả đã miêu tả chi tiết, sinh động, cụ thể đến mức khiến cho người đọc cảm tưởng như mình đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, với dòng sông quái ác, đồng thời cũng thấy được từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và hình ảnh một con sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta gọi Nguyễn Tuân là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì ông là một người có vốn cũng như nguồn tri thức về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… khổng lồ. Tất cả các kiến thức này cũng thường được thể hiện, tuôn trào dào dạt trong những tác phẩm của ông, và qua “Người lái đò sông Đà” ta lại càng thấy rõ hơn về điều này.

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú, đa dạng. Mỗi từ ngữ, mỗi câu văn khi đưa vào các trang viết dường như đã được chắt lọc, gọt giũa một cách cẩn thận. Ông cũng khéo léo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo, chính điều này đã đóng góp vào sự đa dạng ngôn ngữ Việt Nam. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi mang vẻ thô kệch, đời thường, mộc mạc nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Ông không chỉ viết lên những trang văn tài hoa, những tác phẩm đặc sắc mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được những âm hưởng trong mỗi đoạn văn.

Nguyễn Tuân đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một miền quê hương của Tổ quốc. Qua đó, ông đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết, sự trân quý đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Thực sự chính những tác phẩm văn chương đặc sắc này của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó là khi cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để có thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có biết bao nhà văn, nhà thơ lúc này đây dường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến người nghệ sĩ yêu nước Nguyễn Tuân được ví như một cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để có thể thể hiện được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Có thể nói khi đến với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì chính nhà văn là người sáng tạo lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay dường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể viết lên các tác phẩm có giá trị được.

Hình ảnh con sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà mới hiện ra chân thực và vô cùng cảm động. Với ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, tất cả như cũng có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” không dừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Nguyễn Tuân còn miêu tả có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng chính cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Nhà văn còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông ở những đoạn xuôi dòng, không những thế thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả Nguyễn Tuân lúc này cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả, ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà dường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…

Sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà cũng chính là một kẻ thù nhưng lại là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, thêm với đó có một sự sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự rõ nét và sắc sảo… Đối với nhà văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đầu tiên đã là văn phải đẹp, phải trau chuốt. Và đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người và sự vật lúc này đây cũng lại thông qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.

Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc, với những câu văn miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà mới đẹp làm sao. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước của con sông Đà khi đến mùa xuân dòng xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước sông Đà dường như cứ lừ lừ chín đỏ giống như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân như cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân mà phải thốt lên: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên, hình ảnh con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục nhất giống như một người nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.

Có thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm hiểu với một thời vang bóng đã qua. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ có phí phách “nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi nhất ở ngay chính trong các công việc bình thường mà họ đang làm.

Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa có một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Thêm với đó là Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và thêm với đó là hình ảnh của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình như: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Miêu tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thật lớn. Tất cả các kiến thức này cũng thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm của ông. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính uyên bác, tài hoa.

Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong phú. Cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Nguyễn Tuân như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi có vẻ thô kệch, nó dường như cũng đã dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Tác giả không chỉ viết lên những trang văn tài hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm hưởng trong mỗi đoạn văn.

Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê hương Tổ quốc thì nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước. Thực sự chính văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập “Vang bóng một thời” và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành những công trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách thành”. Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại càng cảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sông ấy, mặt sông thường “đúng ngọ” mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia”. Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví như động từ “chẹt”, nó giống như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.

Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc họa đậm nét ở mặt ghềnh Hát Loóng. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu nhưng từ “xô” được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó “gùn ghè”, hầm hè y như những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.

Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái “hút nước” khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống “như những cái giếng bê tông” được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông.

Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đầy hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước như có lúc đang “oán trách”, có khi lại “van xin” hay lại đầy “khiêu khích”. Có lúc nó lại rống lên như “một ngàn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”… Tác giả đã dùng nhiều tính từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” đầy độc ác, nguy hiểm.

Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa của dòng sông như mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng “như một cố nhâ”. Ông còn thấy được dòng sông mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.

Bên cạnh hình ảnh con sông Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy đã được khắc họa một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái dòng sông đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể vượt qua được ma trận với những vòng thách đấu với dòng sông. Trước cái “thạch trận” ấy, ông lái đò vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ông vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặc dù mặt nước có hò reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước thì như những “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Mặc dù nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và rồi dù có bị thương đến mức “mặt méo bệch đi” thì ông vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.

Qua truyện ngắn “Người lái đò sông Đà” tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao… Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại. “Người lái đò sông Đà” thực sự là một tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dòng sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây.

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Giữa thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.

Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà được trích từ tập “Sông Đà” được sáng tác năm 1960, là thành nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Vắc rộng lớn, xa xôi của Tổ Quốc không chỉ để thỏa mãn tìm những miền đất lãn mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động nơi đây.

“Người lái đò sông Đà” là một tuỳ bút viết về thiên nhiên và con người lao động vùng Tây Bắc. Nổi bật giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc là hình ảnh con người, hình ảnh người lái đò dùng cảm, can trường. Với phong cách nghệ thuật rất riêng của mình, khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn tuân, khi đó, lái đò là một nghệ thuật và người lái đò là một người nghệ sĩ.

Người lái đò trên sông đà trong tác phẩm là một ông lão đã hơn 70 tuổi và đã lái đò trên dòng sông đà này đã hơn 15 năm. Có lẽ chính bởi ông đã dành phần lớn thời gian của của mình cho nghề lái đò trên sông nước mà bản thân ông đã trở thành một người lái đò lão luyện “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…”.

Nhân vật người lái đò là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với ông: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.

Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn tuân. Hình ảnh người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”.

Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của thiên nhiên khắc nghiệt như những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.

Và một mình một thuyền, ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền.

Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Từng chi tiết được tác giả miêu tả chân thực và táo bạo cho thấy sự dữ dội ghê gớm của dòng thác đối với con người và chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân, người lái đò chính là một người nghệ sĩ.

Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có mùi gì cả…”.

Rồi lại vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”.

Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…Thật là một dòng sông đầy hiểm trở, và gian nan cho con người. Thế nhưng, “người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”…

Qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân đã ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.

Cuộc đọ sức giữa thiên nhiên dữ dội và con người nhỏ bé, trong cuộc chiến đó, con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”

Từ đây, cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Với tác giả, thiên nhiên là chất vàng của tây Bắc còn con người là chất vàng mười đã qua thử lửa. Trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.

“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã là tiêu biểu cho con người lao động vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, luôn kiên trì và hết mình với công việc. Nổi bật nền trên thiên nhiên bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là con người lao động nơi đây.

Nhà văn là người dẫn đường cho người đọc đến với xứ sở của cái đẹp, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến xứ sở của cái đẹp nơi Tây Bắc, ông đến để tìm chất thơ trong thiên nhiên chất vàng mười trong tâm hồn người dân lao động nơi đây.

Trước hết, đó là vẻ đẹp vừa hùng vĩ mà cũng rất đỗi nên thơ, dịu dàng của thiên nhiên Tây Bắc, của con sông Đà. Cái hùng vĩ dữ dội của sông Đà trước hết là ở đá dựng vách thành. Ngay chỗ này, cách dùng từ của Nguyễn như đã yểm linh hồn cho cảnh vật. Từ “vách thành” gợi cái gì đó âm u, thâm sâu, bí hiểm giống như thành xưa quách cũ, hầm cao hào sâu, giống như một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm. Tiếp theo đó, những so sánh ví von gắn với thực tế về cảm giác lạnh khi ngồi dưới khoang thuyền đi khiến cho thiên nhiên, không gian nơi đây tuy hùng vĩ, nhưng lại đầy hoang lạnh, bí hiểm vô cùng. Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm”, giọng nghe “vừa oán trách, vừa van xin” rồi lại khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Đặc biệt là những hút nước như cống bê tông, đầy nguy hiểm rình rập. Con sông Đà hùng vĩ, dữ dội, hung bạo, cái nét hùng vĩ hung bạo ấy của Sông Đà khác hẳn con sông Hương trong văn Hoàng Phủ, sông Hương hùng vĩ, dữ dội nhưng mang nét đẹp mãnh liệt, phóng khoáng như một bản trường ca của rừng già, còn con sông Đà lại mang tâm địa của một loài thủy quái. Để thuần phục nó, chế ngự nó trên trang văn của mình, Nguyễn đã chơi ngông dùng “nước để tả lửa, lấy rừng để tả sông”, từ đó thấy được sức mạnh, cũng như sự ghê gớm, ác liệt của con sông Đà. Nét đẹp dù dữ dội, hùng vĩ của nó cũng đẹp theo một cách rất riêng.

Nhưng bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, con sông Đà còn mang trong nó vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc, bung nở như hoa ban hoa gạo tháng hai, cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chỉ một chữ áng tóc, ta đã thấy được hết cái tài hoa và màng lọc tâm hồn tinh tế của Nguyễn Tuân, ông luôn nhìn sự vật dưới góc độ văn hóa nghệ thuật, đây chính là minh chứng cho điều đó. Xưa nay người ta chỉ nói áng thơ, áng văn, mái tóc, mấy ai gọi áng tóc bao giờ? Vậy là dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà bỗng mang trong nó phẩm giá và cốt cách của một tác phẩm nghệ thuật, không chỉ đẹp mà còn duyên dáng, mềm mại, tràn đầy sức sống, sức xanh, và nhựa sống như đang bừng nở trên mảnh đất của tổ quốc này. Nét trữ tình, thơ mộng ấy, là tất cả tài hoa và nội lực của ngòi bút Nguyễn Tuân dồn lên trang giấy, để từ đó dẫn đường cho người đọc đến xứ sở của cái đẹp.

Nếu trên kia là vẻ đẹp của con sông Đà, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, thì bên cạnh đó Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà” còn đào sâu để tìm kiếm chất vàng mười trong tâm hồn con người Tây Bắc, mà ở đây có thể thấy rõ nhất là người lái đò. Con sông Đà nhiều khi dữ dằn như muốn ăn tươi, nuốt sống những người chèo đò qua đây, ấy thế nhưng, ông lái Đò ấy vẫn bằng tất cả sức mạnh của mình để chế ngự nó. Ông lái Đò vừa khéo léo, lại vô cùng dũng cảm, đầy mưu lược, tài hoa đã vượt qua được các của tử của con thủy quái này. Ấy thế nhưng, ngay khi vừa ngừng tay chèo, ông lại trở về với cuộc sống giản dị, bình đạm, không hề khoe khoang hay tự hào về chiến tích của mình. Hình ảnh ông lái Đò tay lái ra hoa ấy, qua đó phần nào thể hiện sự vận động trong cách nhìn của Nguyễn Tuân về con người. Trước đó, ông chỉ nhìn thấy cái đẹp ở những con người đặc tuyển, bây giờ ông thấy cả vẻ đẹp bình dị mà lấp lánh của người dân lao động trong cuộc sống mưu sinh, ông đã đi từ chốn tháp ngà nghệ thuật để gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động, hòa nhập với hơi thở cuộc sống mới. Đó cũng là lí do mà văn Nguyễn Tuân trong “người lái đò sông Đà” làm ấm lòng nhiều bạn đọc.

“Người lái đò sông Đà” là một kiệt tác của Nguyễn Tuân, một trang hoa tờ hoa bất ngủ trong dòng chảy văn học Việt Nam, qua đó một lần nữa đóng một dấu triện riêng của Nguyễn vào lịch sử văn học nước nhà.

…………….

Lớp Học Đẹp Nhất Qua Góc Nhìn Của Tôi

Advertisement

Trong suốt quãng thời gian học tập, tôi đã được trải qua nhiều lớp học khác nhau. Tuy nhiên, với những trải nghiệm và kỷ niệm đáng nhớ, lớp học đẹp nhất vẫn luôn là nơi tôi muốn trở lại mỗi khi nhớ về tuổi học trò. Những giờ học đầy ý nghĩa và niềm vui tươi, những bạn học viên thân thiện và giáo viên tận tâm, tất cả đã tạo nên một không gian học tập đáng nhớ và đáng trân trọng. Bài viết này sẽ ghi lại những trải nghiệm và cảm nhận của tôi về lớp học đấy.

Ảnh anime lớp học buồn

Ảnh Anime lớp học đẹp

Ảnh đẹp lớp học nước Mỹ

Ảnh đẹp lớp học

Ảnh đẹp về lớp học

Ảnh hoạt hình lớp học đẹp

Ảnh kỷ niệm lớp học đẹp

Ảnh kỷ yếu áo dài trắng trong lớp học

Ảnh kỷ yếu áo dài trong lớp học đẹp

Tham Khảo Thêm:

 

Hình trái tim được tô màu bởi bức tranh

Ảnh kỷ yếu lớp học chất lượng cao

Ảnh kỷ yếu lớp học tuyệt đẹp

Ảnh lớp học buồn đẹp

Ảnh lớp học mầm non cực đẹp

Ảnh lớp học miền núi giản dị cực đẹp

Ảnh lớp học tiếng Anh đẹp

Ảnh lớp học tiểu học cực đẹp

Ảnh lớp học tiểu học đẹp

Ảnh lớp học trong giờ họp phụ huynh đẹp

Ảnh lớp học vùng cao đẹp

Ảnh trang trí lớp học đẹp nhất

Background lớp học tuyệt đẹp

Hình ảnh cô giáo kèm học sinh trong lớp

Hình ảnh cực đẹp lớp học hiện đại

Hình ảnh cực đẹp về lớp học

Hình ảnh đẹp lớp học giữa thầy và trò

Hình ảnh đẹp lớp học

Hình ảnh đẹp về lớp học hiện đại

Hình ảnh đẹp về lớp học thời xưa

Hình ảnh học sinh trong lớp đẹp

Hình ảnh lớp học anime giờ giải lao đẹp

Hình ảnh lớp học cổ kính đẹp

Hình ảnh lớp học công nghệ thông tin đẹp

Hình ảnh lớp học đại học đẹp

Hình ảnh lớp học đại học tuyệt đẹp

Hình ảnh lớp học đẹp, chất lượng

Hình ảnh lớp học hiện đại tuyệt đẹp

Hình ảnh lớp học mẫu giáo đẹp

Hình ảnh lớp học ngành IT đẹp

Hình ảnh lớp học sang trọng, đẹp

Hình ảnh lớp học tiểu học cực đẹp

Tham Khảo Thêm:

 

“Cùng khám phá những ý tưởng trang trí lớp học đẹp nhất”

Hình ảnh phòng học tuyệt đẹp

Hình ảnh tuyệt đẹp về lớp học đại học

Hình đen trắng về lớp học thời xưa đẹp

Hình nền lớp học tuyệt đẹp

Mẫu lớp học đẹp

Mẫu lớp học tuyệt đẹp

Phông nền lớp học online cực đẹp

Sau khi trải qua nhiều năm học tập, tôi đã từng trải qua nhiều lớp học và gặp gỡ nhiều bạn bè. Tuy nhiên, trong tất cả các lớp học đó, lớp học đẹp nhất với tôi không phải là vì những lợi ích học tập mà chính là những kỷ niệm đáng nhớ trong suốt quãng thời gian học tập.

Trong lớp học đó, chúng tôi không chỉ học được kiến thức từ sách vở, mà còn được học cách sống, học cách yêu thương và học cách đồng cảm với nhau. Những kỷ niệm vui vẻ, những lần cùng nhau học tập và giải trí đã gắn kết chúng tôi với nhau thành một gia đình học đường. Những buổi đi chơi, đi picnic và các hoạt động vui chơi giúp chúng tôi thư giãn sau những giờ học căng thẳng.

Lớp học đẹp nhất là lớp học mà tôi luôn nhớ đến với những kỷ niệm tuyệt vời cùng các bạn bè thân thiết. Đó là một khoảng thời gian tuyệt vời mà tôi mong muốn như vậy nhiều hơn trong cuộc đời của mình.

Advertisement

Từ Khoá Tìm Kiếm Liên Quan: 

10. Tường trang trí bắt mắt.

Advertisement

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Thứ Vàng Mười Trong Người Lái Đò Sông Đà 2 Dàn Ý & 7 Bài Văn Mẫu Lớp 12

Văn mẫu lớp 11: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân tuyển chọn 7 mẫu kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Chất vàng mười đã qua thử lửa được dùng để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.

1. Mở bài

Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ Vang bóng một thời và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách mạng, ông không đổi lập quá khứ với hiện tại, đặc biệt là phẩm chất tải hoa có thể tìm thấy ở nhân dân đại chúng. Tùy bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng mười của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ờ tâm hồn của những người lao động. Và hình ảnh ông lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà lả một minh chứng sống động cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật ấy.

2. Thân bài

a) Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:

– Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời sáng tác của ông là đi sân tìm cái đẹp. Cho nên, ưng con mắt của tác giả, mọi đối tượng thiên nhiên và con người đều tồn tại trên phương diện thẩm mỹ, lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn.

– Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân chia ra làm hai thời kì lớn: trước và sau cách mạng.

– Những năm trước cách mạng, Nguyễn Tuân còn đam mê chủ nghĩa lãng mạn, ông chối từ hiện tại, tìm về với vẻ đẹp cội nguồn của vần học sùng cổ, hoàn toàn xa lạ với cuộc cách mạng của chúng ta. Nhưng từ sau năm 1945, một lớp văn nghệ sĩ như Nguyễn Tuân cố sự giác ngộ tư tưởng, họ tìm được đến với Ánh sáng, phố xá của cách mạng. Nguyễn Tuân cũng hồ hởi với công việc này nhưng ông không lấy văn chương làm công cụ tuyên truyền cách mạng mà ông thể hiện tinh thần yêu nước ở phương diện khác. Đó là sự đam mê, khám phá vẻ đẹp của non sông, đất nước. Trong đó có dòng sông Đà, đảo Cô Tô, đảo Bạch Long Vĩ,…

+ Với đòi hỏi của thời cuộc, Nguyễn Tuân cũng lao mình vào thực tại để hòa nhập vào công cuộc xây dựng kinh tế sau chiến tranh, để hàn gắn vết thương mà kháng chiến chống Pháp để lại. Nguyễn Tuân cùng các đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc để tìm cho ra, cho thật nhiều: “Cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí của những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công việc, xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững’*. (Nguyễn Tuân). Vì vậy, cảm hứng chủ đạo trong tùy bút này là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân, những con người thầm lặng, vô danh mà vĩ đại.

– “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động: để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Họ là những con người bình dị, đời thường nhưng có khát khao chinh phục và làm chủ thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng kinh tê đất nước, vẻ đẹp “qua thử lửa” chính là những khó khăn, gian khổ mà họ đã trải qua trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, vẻ đẹp đó sáng ngời như một thứ “vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc.

b) Khái quát về tác phẩm:

– “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập kí “Sông Đà”, đây là một tác phẩm tùy bút có giá trị rất sâu sắc cả về văn học và xã hội. Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng mười của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động đã qua thử lửa”. Tác phẩm này còn đặt nền móng cho nhiều dự án mang tính lịch sử – chính trị-xã hội sâu sắc nhưng hơn hết được mệnh danh là một tác phẩm văn chương gần như đạt đến sự hoàn mỹ.

– Tập kí “Sông Đà” ra đời năm 1960, trong công cuộc xây dựng vùng Tây Bắc sau chiến tranh. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại mang đến cảm hứng riêng của mình cho đề tài này. Chế Lan Viên hồ hởi với chuyến tàu lên Tây Bắc, còn Nguyên Khải lại thấy sự đổi thay trong con người. Cũng trong đề tài đỏ, Nguyễn Tuân khám phá và phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc như bàn thể của núi rừng. Nó chính là thủ vàng mười mà nhà văn đang tìm kiếm.

c) Hình tượng người lái đò sông Đà:

– Hình ảnh người lái đò trong tác phẩm không được miêu tả chi tiết về hình ảnh và cá tính mà phần lớn được gợi lên thông qua vẻ đẹp của con người lao động trí tuệ và tài hoa.

– Trong tác phẩm, nhà văn xây dựng hai nhân vật đó là con sông Đà và người lái đò trên dòng sông ấy. Đỏ là một dụng ý nghệ thuật cao tay của bậc tu từ tài hoa. Bức tranh thiên nhiên dữ dội, con quái vật hiểm ác, kẻ thù số 1 kia chỉ là phông nền để tác giả tô vẽ, ngợi ca, tôn vinh sức mạnh kì vĩ của con người. Vì thế, hình tượng người lái đò sông Đà được nhà vãn xây dựng như một dũng tướng tài ba, là một nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đò vượt thác.

– Vốn dĩ xuất thân từ núi rừng nên ông lái gắn bó chặt chẽ với cuộc sống nơi đây. Ông sinh ra trên bờ sông Đà, dòng sông thác lũ đó là nguồn nuôi sống chữ ông ngay từ khi còn đỏ chỏm. Cho đến cuộc sống sau này, cuộc đời Ông vẫn là những hành trình leo thác, vượt sông, hình như con người và thiên nhiên gắn bó mật thiết cho nên khi đã nghỉ đò mà ông vẫn nhớ về thác lũ và trận địa đá trên sông.

– Trên dòng sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu được quy luật của các dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng xanh luồng dữ, cửa sinh, cửa tử; thông minh, gan dạ, hoạt bát, tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái, đua người và hàng vượt qua 73 con thác đến đích an toàn. Con người ấy được ví như “thứ vàng mười” nhưng lại là một tay nhà đò nghèo khổ, tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, giọng ồn ào như tiếng thác nước mặt ghềnh sóng, nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun, khuôn mặt khắc khổ in hằn dấu vết của công việc đầy gian nan, nguy hiểm. Ông là một nhân vật không tên, vì ông là đại diện cho bao nhiêu con người trên đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm, cần mẫn trong lao động, không ngừng phải đối diện với thiên tai địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương đất nước. Nhờ đó mà hình tượng trở nên lớn lao, kì vĩ.

– Người lái đò là người rất mực trí dũng và bàn lĩnh .Để làm nổi bật phẩm chất này, Nguyễn Tuân đã có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách, khốc liệt. Nguyễn Tuân khẳng định “Ông muôn ghi cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đỏ trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà”. Nhà văn đã mô tả một cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò vô cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, thủy chiến dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Đá ờ đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông…để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông với những boongke chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức văn hóa khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh…của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thủy chiến ác liệt giữa người lái đò và sóng thác sông Đà: “Sóng nước thúc gối vào bụng và hông thuyền… có lúc chúng đội cà thuyền lên… sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất”. Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thủy quái sông Đà vô cùng hung bạo ấy ngấu nghiến nuốt chửng. Trước sức mạnh của kẻ thù số một của con người, ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyên lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “Phá cái trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo”… “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Những người lái đò vẫn “Cười lên thác sông Đà.. .đến cùng như cưỡi hổ”.

– Người lái đò tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò còn là người rất mực tài hoa, có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác, khỉnh suất, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả chính sinh mạng của mình. Nhung sóng, thác sông Đà đù cớ hung dữ đến đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò trí dũng đó. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có kĩ nghệ chở đò kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà, nhờ thế mà người lái đò ớ tư thế chủ động, tự do, người chiến thắng. Ông lái đò đã nắm chắc mọi quy luật của dòng sông. Lúc thì “ông cưỡi thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử” lúc lại “Ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác để mở đường tiến”. Bằng những động tác thuần nhuyễn trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền “như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình có “tay lái ra hoa” là như vậy. Người lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng chiến thắng thiên nhiên.

– Ông lái đò còn hiện lên với vẻ đẹp của người lao động bình dị: Khác với cảm xúc của tác giả, thì việc vượt sông của ông lão chi là công việc lao động bình thường, ông đã quên ngay khi hành trình kết thúc. Con sông Đà hung dữ như vậy nhưng ông chỉ coi nó như chiếc lá thu. Ông đến với nó như người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó và lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Quà mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm lại tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Hộ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh, như không hề có chuyện gì xảy ra, cho dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt. Đó là vẻ đẹp bình dị của những con người lao động trên miền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.

Tiểu kết: Với cá tính sáng tạo độc đáo, Nguyễn Tuân luôn có những phát hiện mới lạ nơi con người và sự vật. Nhà văn mang đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về vẻ đẹp của con người lao động, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở những nơi chiến trường, nó hiện hình ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta phải lao động, vật lộn với miếng cơm, manh áo và cho những điều lớn lao hơn thế. Trí dũng, tài hoa không phải tìm ở đâu xa mà nỏ hiện hữu ngay trong những con người bình thường, giản dị nhưng luôn ánh lên “chất vàng mười” vô cùng quý giá. Cuộc đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu là một khúc vĩ thanh tuyệt vời của núi rừng Tây Bắc, là ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật chân chính của người nghệ sĩ. Vì lẽ đó, tác phẩm đã trở thành một tuyệt phẩm vinh danh sự tìm tòi và sáng tạo không ngừng trong cuộc đời lao động nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông xứng đáng là “ông vua” của thể loại tùy bút – một bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại

d) Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kí của Nguyễn Tuân

– Thiên tùy bút mang đậm cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác ở cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ, văn hóa: dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của Tạo hóa; người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.

– Vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,., .huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực: địa lý, lịch sử, võ thuật, thể thao, quân sự để xây dựng hình tượng.

– Sử dụng hình ảnh mới lạ, độc đáo, hấp dẫn.

– Sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả trở nên sống động và hấp dẫn hơn.

– Tất cả những kết tinh nghệ thuật như trẽn đều nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình; vẻ đẹp của người lao động trên sông nước rất đỗi bình dị, kỳ vĩ mà lớn lao.

3. Kết bài

Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và khâm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười” quý giá của Tổ quốc. Sáng tạo nên hình tượng này, Nguyên Tuân đã mang đến một thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa, nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động và những người bình dị có trí dũng tài ba, họ có thể tạo hình tạo mẫu cho nghệ thuật văn chương.

I. Mở bài:

– Giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác tùy bút sông đà của Nguyễn Tuân.

– Giới thiệu vấn đề nghị luận: “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò.

II. Thân bài:

– Giải thích một cách ngắn gọn ý của cụm từ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” – từ dùng của Nguyễn Tuân – để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.

– Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà:

Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân (không tên, tuổi, quê quán).

Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.

Ông am hiểu đối tượng mà mình đang chinh phục.

* Sự từng trải:

– Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết : người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.

– Ông mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống lao động hàng ngày:

– Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

– Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đất nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn.

– Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.

+ Nghệ sĩ tài hoa :

– Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba

+ Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới: giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí.Đó là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

III. Kết bài:

– Khái quát lại vấn đề: Nhận xét chung về vẻ đẹp của ông lái đò, đánh giá nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào tình huống đầy cam go, thử thách để nhân vật bộc lộ tính cách phẩm chất; phối hợp những thủ pháp tiêu biểu của các ngành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện…

– Rút ra bài học cho bản thân.

Là một nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân dành trọn cả cuộc đời mình để rong ruổi khắp nơi truy tìm chân – thiện – mỹ. Ở văn chương của Nguyễn Tuân, ta không chỉ thấy thiên nhiên gắn liền với cái đẹp mà đến cả con người, vẻ đẹp ấy cũng ngã vào trang giấy. Nguyễn Tuân nhìn đời bằng ánh nhìn tinh tế, ông đi sâu khai thác vào vẻ đẹp bên trong bị khuất lấp bởi những dung dị đời thường của những con người lao động. Ở “Người lái đò sông Đà”, vẻ đẹp của con người được đẩy lên đến tột cùng khi được ví von như “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” hay vẻ đẹp của thiên nhiên được gọi bằng “Chất vàng mười”.

Được trích từ tập tùy bút “Người lái đò sông Đà”, tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những ngày đất nước đang trên đà đổi mới, người dân bắt đầu công cuộc kiến thiết đất nước. Tác phẩm còn đặc trưng cho phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám là nhận thấy và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của con người lao động. “Người lái đò sông Đà” là minh chứng cho chủ nghĩa xê dịch ở Nguyễn Tuân cũng như vốn từ vựng phong phú cùng với tài hiểu biết uyên thâm của nhà văn.

“Vàng” mà Nguyễn Tuân sử dụng không theo nghĩa đen mà ở đây ta có thể hiểu đó là cụm từ kết tinh hết những vẻ đẹp, tinh hoa của đất trời Tây Bắc và vẻ đẹp tài trí của con người.

Trong cả thiên nhiên và con người Tây Bắc đều tiềm tàng những giá trị quý báu được thể hiện một cách tinh tế. “Chất vàng mười” ám chỉ những giá trị lớn lao mà thiên nhiên nơi đây chất chứa. “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” cũng giống như con người Tây Bắc đã được tôi luyện qua những thử thách, gian lao. Cách sử dụng từ “vàng” theo cách của Nguyễn Tuân rất “đắt” cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật.

Sông Đà tự bao đời nay vẫn giữ riêng cho mình một vị trí độc tôn giữa núi rừng Tây Bắc, dòng sông như biểu tượng cho sức mạnh và sự hùng vĩ của thiên nhiên. Hai bên sông Đà “đá dựng thành vách” như những thành trì kiên cố, vững chắc khó lòng xâm phạm. “Những thác nước gầm réo muôn đời” như tiếng oán than của sinh vật chốn rừng thiêng chỉ trực chờ tước mạng con người. Khi lại như van xin, lúc lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, con sông lúc này đang điên cuồng, hung bạo đến tột cùng, nó như trở thành biểu tượng của sự oai linh. Cùng với những vách đá và tiếng thác nước gầm réo muôn đời, sự xuất hiện của sóng, của đá và gió sông Đà tạo thành một bản hùng ca sông nước.

Sông Đà mưu mẹo, hiểm ác khi đã bố trí những tảng đá từ hòn to đến nhỏ phối hợp với các ghềnh thác tạo thành những thạch trận trên sông. Cửa sinh bao giờ cũng hiếm hoi hơn cửa cửa tử. Sông Đà luôn trực chờ những mái chèo non tay lái để nuốt gọn vào lòng. Sự bố trí cửa sinh và cửa tử ở mỗi vòng đều khác nhau để đánh lừa những con người không tường tận sông nước nơi đây. Sông Đà lúc này mang hình hài là “kẻ thù số một của người lái đò”.

Thế nhưng bên cạnh những hung bạo của dòng sông “đời đời làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc” thì sông Đà cũng có những lúc trữ tình, e lệ đến lạ. Từ “thứ kẻ thù số một”, sông Đà lúc này lại được ngắm nhìn như một cố nhân. Nắng sông Đà như màu “nắng tháng Ba đường Thi”, đầy vẻ thú vị khiến người ta quên béng đi vẻ hung bạo vốn có. Sông Đà khoác lên vẻ dịu dàng của “một áng tóc trữ tình” và điển lên áng tóc tuôn dài ấy mà tạo hóa đã ban tặng cho con người Tây Bắc là sắc trắng của hoa ban, hoa gạo tháng Hai.

Sông Đà đẹp đến nao lòng người, dòng sông thướt tha bao đời dung hòa với đất trời Tây Bắc như một nét chấm phá nơi đây. Nước sông Đà không chỉ tẻ nhạt một màu vĩnh cửu mà ở mỗi mùa, nước sông lại biến đổi thành những sắc màu khác nhau. Là “xanh màu xanh ngọc bích” như hân hoan với đất trời mùa xuân, là “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” mỗi độ thu về.

Không chỉ dòng sông, hai bên bờ sông cũng được miêu tả nên thơ, trữ tình đến lạ. “Hai bên bờ sông lặng tờ” như tăng thêm nét huyền bí, cuốn hút cho dòng sông “chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẵng tính và gắt gỏng, thác lũ ngay đấy”. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, chưa có sự khai phá, động chạm của con người, bờ sông lúc này vẫn giữ nguyên nét đẹp tựa buổi hồng hoang. Sự xuất hiện của “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” khiến đoạn văn như được thổi bùng sức sống.

Ngoại hình cao lêu nghêu, chân lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ông ào ào. Ngay cả trong ngoại hình, Nguyễn Tuân cũng sử dụng những thi liệu từ sông nước để gợi tả ông đò cho thấy sự gắn bó với ông đò với dòng Đà giang. Ông như thổ địa nắm trong tay từng chân tơ, kẽ tóc sông Đà, ông can đảm, mưu trí, ngày ngày đối mặt với những cơn thịnh nộ từ lòng sông để đò ông cập bến an toàn.

Ông lái đò là một tay lái ra hoa được minh chứng với việc ông chèo chống con đò, đối mặt với dòng nước sông Đà mỗi ngày để mưu sinh. Ông am hiểu từng hòn đá, thuộc quy luật của từng luồng nước, điều đó cũng góp phần làm nên “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nơi đây.

Ngày ngày, biết bao con người Tây Bắc phải gồng mình đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để mưu sinh, có thể ví von những con người ấy “đã qua thử lửa”. Ở ông đò, ta thấy được phong thái tài ba thực thụ mà không phải ai hành nghề lái đò cũng có thể có được. Ông bình thản, chú tâm xuyên suốt cuộc chiến với dòng sông Đà hung bạo kia.

Ông điêu luyện nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, am hiểu từng mạch nước của con sông Đà hung tợn. Thạch trận của con sông Đà dù ở vòng vây nào cũng bị ông đò dễ dàng nắm thóp, ông thuộc tất thảy sự bố trí cửa sinh, cửa tử mà sông Đà đã dày công sắp đặt. Đối với mỗi trận, ông đều có cho mình những cách đối mặt riêng, khi thì rảo bơi chèo, khi vượt lên đè nát những hòn đá ngỗ nghịch.

Ông đò như một nhà chỉ huy tài ba chèo lái con đò đến bờ an toàn. Một chút thiếu bình tĩnh hay lỡ tay cũng trả giá bằng sinh mệnh, ấy vậy mà ông đò đối mặt với chuyện ấy nhẹ tựa lông hồng. Ông đò khỏe khoắn, mưu trí, tài ba như đại diện cho tầng lớp nhân dân đang ngày ngày làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

“Người lái đò sông Đà” như một bản hùng ca về thiên nhiên kỳ vĩ nơi Tây Bắc. Đồng thời cũng bộc lộ được nghệ thuật tài ba của Nguyễn Tuân trong hành trình đi tìm cái đẹp, ông đã khai thác xuất sắc vẻ đẹp tài hoa của con người bị khuất lấp sau vẻ ngoài lao động dung dị, giản đơn. Miêu tả thiên nhiên với hai đặc tính hung bạo và trữ tình để làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của con người lao động trong Cách mạng cũng như trong thời kì kiến thiết đất nước.

Trong “Trường ca mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm từng viết:

Non sông gấm vóc Việt Nam được tạo nên từ trăm ngàn con sông lớn nhỏ. Từ những dòng sông ở đồng bằng mang đến bao phù sa màu mỡ đến những con sông ở miền núi cao với tiềm năng thủy điện, chúng đều có những vẻ đẹp riêng. Với Nguyễn Tuân – nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp – lại bị cuốn hút bởi một con sông đặc biệt: sông Đà. Vẻ đẹp của sông Đà được Nguyễn Tuân xem là “thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc”.

Vàng mười không chỉ đẹp mà còn rất có giá trị. Và có lẽ vì đó mà nhà văn gọi sông Đà là “thứ vàng mười”. Sông Đà đẹp, nhưng lại mang một vẻ đẹp rất khác, đầu tiên nằm ở hướng chảy của nó. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã trích hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích:

Trong khi mọi dòng sông đều rủ nhau chảy về hướng đông thì sông Đà ung dung ngược về phương bắc, chỉ riêng mình nó chảy về phương Bắc mà thôi. Có lẽ vì vậy mà con sông này có đến hai nét tính cách riêng biệt: hung bạo nhưng cũng rất đỗi trữ tình.

Sông Đà trước tiên là dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Cái hùng vĩ của nó được thể hiện qua những tảng đá ven bờ được dựng thành vách. Vách cao đến nỗi “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc chính ngọ mới có mặt trời”. Thậm chí, nó còn “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Ở đây, Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh rất thành công, tái hiện lại cho người đọc được độ cao của vách đá cũng như sự âm u đáng sợ của sông Đà. Tiếng gầm thét của con sông nghe cũng thật đáng sợ, suốt năm suốt tháng cứ gầm ghè gào thét, “nghe như là tiếng đòi nợ xuýt” vậy. Ghềnh Hát Loóng nước đổ dữ dội “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Người lái đò qua đây phải vô cùng cẩn thận nếu không thuyền sẽ bị lật ngửa lên ngay. Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ khiến con sông trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn. Con sông Đà hung bạo còn bởi những cái hút nước chết người. Chúng như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu, khi thì “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hút nước vốn đã ghê rợn lại được nhà văn sử dụng các từ như “thở, kêu, ặc, ặc ăc” càng làm tăng thêm sự khủng khiếp của chúng. Trong phần này, Nguyễn Tuân đã chứng minh sự tài hoa uyên bác của mình bằng cách sử dụng vốn kiến thức từ nhiều lĩnh vực từ điện ảnh, âm nhạc, hội họa đến xây dựng để miêu tả sự kỳ vĩ, hung bạo của Đà giang. Có thể nói, ông là người đầu tiên so sánh nước với lửa: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Nước và lửa vốn là hai thứ có sức hủy diệt lớn, lại luôn tương khắc nhau, nay dưới ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân mà trở thành hai yếu tố hợp sức với nhau để tái hiện nên cái kỳ vĩ của thác nước. Tiếng nước nghe “như là oán trách, rồi lại như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn chế nhạo”. Tác giả đã nhân cách hóa dòng sông, biến nó thành một tạo vật trái tính trái nết, lúc nào cũng gầm gừ gào thét những âm thanh ghê rợn.

Cái hùng vĩ của sông Đà không chỉ ở thác nước mà còn ở những “trùng vi thạch trận” đầy hiểm nguy. Tác giả chia đá ở đây thành ba trùng vi thạch trận. Vòng đầu tiên là “hàng tiền vệ” với bốn của tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm về phía tả ngạn dòng sông. Chúng có nhiệm vụ dụ thuyền vào giữa tuyến rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Tiếp đến là vòng thứ hai. Vòng này tăng thêm cửa tử, cửa sinh được bố trí về hữu ngạn với những boongke pháo đài có nhiệm vụ tiêu diệt những thuyền vượt qua vòng một. Trùng vi thứ ba thì ít cửa hơn, cửa sinh lại nằm ở chính giữa. Đi hết cửa này lòng sông bỗng trở nên thanh bình. Sông Đà hiện lên như một loài thủy quái đầy mưu mô, xảo quyệt. Những loại đá thì như những binh sĩ hung tợn, tên nào tên nấy ngỗ ngược, nhăn nhúm và hiếu chiến. Một lần nữa nhà văn lại thể hiện sự uyên bác của mình qua lĩnh vực quân sự, thể thao, võ thuật để miêu tả sông Đà. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm tài ba đang kể lại cho chúng ta chuyến thủy trình đầy hiểm nguy bằng những ngôn từ, liên tưởng vô cùng sống động. Sự ghê rợn của Đà giang nghìn đời nay vốn vẫn quyết đấu với con người. Có thể nói, qua việc miêu tả thác nước sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sức mạnh chế ngự tự nhiên của con người. Nhưng suy cho cùng, sự dữ dội của con sông ấy lại mang về tiềm năng thủy điện, tiềm năng kinh tế cho người dân, đất nước.

Đáng sợ là thế nhưng sông Đà cũng là một dòng sông rất trữ tình. Đi qua cái dữ dội của thác đá, sông Đà lại trở về là một dòng sông thanh bình, dịu êm. Không còn những trùng vi thạch trận đầy hiểm nguy, không còn những hòn đá ngỗ ngược, sông Đà lúc này êm đềm với những chuồn chuồn, bươm bướm. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân. Do đó, ông hiểu cái “chất đằm đằm ấm ấm” thân quen và cái chất thơ mộng mị của cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Ven bờ là những bãi ngô non, là cỏ gianh, là đàn hươu thong dong gặm cỏ. Sông Đà không chỉ mang đến tài nguyên thủy điện mà còn bồi đắp phù sa màu mỡ cho núi rừng Tây Bắc. Sông Đà, trong mọi hoàn cảnh lại có một vẻ đẹp riêng. Khi đi máy bay, có người sẽ thấy đó là “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, có người lại thấy con sông như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc”. Theo cách nói của tác giả, “đối với mỗi người, sông Đà lại gợi cảm theo một cách khác.” Nước sông Đà đổi màu đa dạng theo thời gian. Mùa xuân, nước sông xanh màu ngọc bích, màu xanh quý phái khác hẳn sông Gâm sông Lô”. Mùa thu nước sông lại “lừ lừ chín đỏ”. Và đặc biệt, nước sông Đà chưa từng có màu đen như Thực dân Pháp “lếu láo” gọi. Rõ ràng, Nguyễn Tuân phải hiểu rất rõ về sông Đà mới đưa ra khẳng định như thế. Điều đó vừa làm tôn lên vẻ đẹp của sông Đà, vừa thầm kín thể hiện tình yêu của tác giả đối với dòng sông đặc biệt này. Sông Đà còn là dòng chảy của lịch sử nước Nam ta. Bởi lẽ, từ đời Lý – Trần, Lê sơ, cảnh ven sông đều lặng lẽ như tờ. Bờ sông bấy lâu nay vẫn tĩnh lặng hoang sơ giờ đây cần được đổi mới. Giá mà có tiếng còi xe lửa mang theo sự nhộn nhịp giàu sang ở miền xuôi lên Tây Bắc thì tốt biết bao! Những câu văn của Nguyễn Tuân như những bản tình ca êm ái, vừa sống dậy những vẻ đẹp hiện đại, vừa đưa ta trở về với những miền ký ức xa xăm nay chỉ còn là vang bóng.

Nhìn sông Đà như một cố nhân, Nguyễn Tuân thể hiện cái tình cảm tri âm tri kỷ đối với dòng sông kỳ lạ này. Đối với ông, sông Đà không chỉ là một tạo vật thuần túy mà còn là một sản phẩm nghệ thuật cần được trân trọng, khám phá. Bằng cái nhìn độc đáo, cảm nhận tinh tế, Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy “cái chất vàng mười đã qua thử lửa” có một không hai của Tây Bắc. Sông Đà không đơn thuần là một dòng sông, nó là một nhân tố làm giàu đẹp thêm tương lai đất nước.

Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta mới thấy rõ con người suốt đời đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân. Không những thế, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước, say mê với vẻ đẹp tiềm tàng của núi rừng Tây Bắc thân thương.

Tây Bắc thật hùng vĩ với vẻ đẹp quý giá của thiên nhiên, nhưng con người còn quý giá hơn khi chinh phục được thiên nhiên. Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà được nhà văn diễn tả thành công khi khắc họa nên hình tượng người lái đò.

Nhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân xây dựng nên giống như một tượng đài của nhân dân. Đó là hình ảnh về một con người rất đỗi bình thường, không tên, không tuổi, không quê quán và hoạt động trong một môi trường khắc nghiệt đầy dữ dội.

Ông lái đò đã gần 70, có ngoại hình lêu nghêu, chân lúc nào cũng như khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy một cuống lái, giọng ào ào như một ghềnh sông. Cái đầu ông đã bạc nhưng vẫn còn quắc thước với thân người cao to, gọn quánh đầy những chất sừng, chất mùn… Trong tác phẩm, ông lái đò hiện lên là một người từng trải, thành thạo và lão luyện với nghề sông nước của mình.

Người lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân trở thành linh hồn muôn thuở của sông nước này. Ông được miêu tả làm nghề đò được hơn mười năm rồi. Sự từng trải hiểu biết về đối tượng chinh phục của ông còn thể hiện ở việc ông nhớ rất rõ bảy mươi ba con thác với từng luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.

Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà thể hiện ngay ở vẻ đẹp của người lao động. Sông Đà như một thiên anh hùng ca bất tận mà ông thuộc lòng đến từng dấu chấm câu. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại đưa vào tác phẩm của mình những ngọn thác cũng như thời gian mà ông lái đồ cầm lái trên dòng sông này. Tất cả đều hướng đến chất vàng mười trong người lái đò sông Đà. Ông lái đò làm việc trong một hoàn cảnh khắc nghiệt đầy thử thách. Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào môi trường đó để nhấn mạnh và làm bật nên chất vàng mười trong người lái đò sông Đà cũng như cho thấy sự dũng cảm mưu trí của người lao động dù trong hoàn cảnh khốc liệt nhất của cuộc sống. Đây được xem là cuộc chiến đấu gian lao, một cuộc thủy chiến trên mặt trận của con sông Đà.

Một cuộc vượt thác nguy hiểm được diễn ra nhiều trận, nhiều hồi với nhiều mồ hôi, như một trận đánh nguy hiểm chết người mà nếu không có sự mưu trí và dũng cảm sẽ không thể vượt qua được. Chất vàng mười trong người lái đò sông Đà còn hiện lên ngay cả khi người lao động bị thương, ở đây ông lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn khép chặt cuống lái mà chiến đấu.

Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà còn được cho thấy ở phong thái đĩnh đạc của một nghệ sĩ tài hoa. Nguyễn Tuân đã trân quý mà nói rằng “đây là một tay lái ra hoa”. Quy luật của con sông Đà vốn khắc nghiệt, bởi chỉ cần một chút lơ là, một chút thiếu bình tĩnh cũng có thể mất mạng. Tại khúc sông này, chỗ nào cũng thấy toàn những hiểm nguy cả. Người lái đò điêu luyện vừa thuộc dòng sông, nằm lòng quy luật của lũ đá nơi ải nước lại nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Do đó, mỗi khi vào cuộc chiến, ông lái đò luôn bình tĩnh và khôn khéo, giống như một vị chỉ huy cầm quân tài ba. Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà là sự tài hoa đầy nghệ sĩ của người lao động nơi Tây Bắc này.

Có thể thấy, người lái đò mang những vẻ đẹp của những người lao động thời kỳ hiện đại: giản dị, khiêm nhường nhưng lại vô cùng khỏe khoắn, hùng tráng, tài trí. Đây chính là những con người lao động làm chủ được thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và công việc của mình. Có thể nói, thể hiện những vẻ đẹp của ông lái đò chính là một sự tinh tế và sắc sảo trong ngòi bút của Nguyễn Tuân khi đề cập đến chất vàng mười trong người lái đò sông Đà.

Biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên nơi mảnh đất Tây Bắc chính là hình tượng kì vĩ lớn lao của dòng sông Đà. Vẻ đẹp của nó thể hiện rõ nét cho chất vàng mười trong người lái đò sông Đà. Sự dữ dội, mạnh mẽ và hùng vĩ của thiên nhiên được tái hiện gói gọn trong vẻ đẹp của con sông Đà.

Với địa thế đầy ấn tượng “hai bên đá dựng thành vách” với lòng sông thì “chẹt lại như một cái yết hầu”. Sông Đà hiện lên thật hùng vĩ nhưng đầy hung bạo và hiểm ác. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt các phép so sánh và nhân hóa để thần thánh hóa sông Đà như một con thủy quái nham hiểm và hung dữ.

Bên cạnh sự hiểm nguy đầy hung bạo, con sông Đà còn mang vẻ đẹp nên thơ và trữ tình. Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông trở thành một thiếu nữ Tây Bắc vừa mang vẻ hoang dại lại có sức hấp dẫn và kiều diễm. Đó là sự mềm mại thướt tha êm đềm của dòng sông, là màu nước đa dạng thay đổi theo mùa “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình” hay mang “màu xanh ngọc bích” rồi lại “lừ lừ chín đỏ”…

Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà không chỉ ở vẻ đẹp trữ tình của dòng sông mà còn ở vẻ đẹp rất đỗi hiền hòa. “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông rất đỗi hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xa xưa…”. Hơn thế là cảnh sắc ấm áp tươi vui và đầy sức sống ở hai bên bờ sông.

“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sĩ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đò vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.

Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngày đầu tiên với ngoại hình của ông:

“Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”

Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi:

“Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.

Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.

Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tượng, đá tiền về với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vì một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch.Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc. Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sĩ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.

Giữa cánh đồng văn chương rộng lớn, người nghệ sĩ nhỏ bé như những hạt bụi bay lượn trong không khí để tìm chất vàng trong bộn bề của cuộc sống. Với Nguyễn Tuân, chất vàng mà ông tìm được qua chuyến đi gian khổ đó là chất vàng mười của thiên nhiên và ở đó ông đã làm nổi bật lên “thứ vàng mười đã đi qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động. Điều đó được thể hiện trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” đặc biệt được tô đậm qua hình tượng người lái đò.

Văn chương chính là nguồn cảm xúc bất tận chảy trong những người nghệ sĩ, chính những cảm xúc ấy đã thôi thúc nhà văn phải tìm nguồn đề tài và cầm bút lên sáng tác. Mỗi tác phẩm ra đời là cả một quá trình thai nghén, người nghệ sĩ phải lặn ngập trong biển lớn cuộc đời để tìm cảm xúc, cũng chính vì vậy mà mỗi một tác phẩm ra đời là cả một quá trình gian khổ. Cũng như Nguyễn Tuân, tùy bút sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà ông đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc. Chính lúc đó, ông bắt gặp một cảnh làm mạch cảm xúc của ông tuôn trào không kìm nén đó là vẻ đẹp tâm hồn của người lao động con mắt tinh tế của ông dường như nhìn thấy được vẻ tâm hồn ấy qua vẻ đẹp của thiên nhiên mà ở đó ông gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa”. Tất cả được ông thể hiện qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Dưới ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân, dường như mọi nhân vật đều trở nên mới mẻ và độc đáo, hình tượng người lái đò chính là nhân vật điển hình cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của ông.

Ở đây, “thứ vàng mười” chính là vẻ đẹp tâm hồn của người lao động mà không ai khác chính là ông lái đò, vẻ đẹp ấy đã qua thử lửa bởi chính con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân là một ngọn lửa nóng chảy. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng người lái đò với hai tính cách đó là sự chí dũng kiên cường và chất tài hoa nghệ sĩ, hai tính cách đối lập đã làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Bước vào tác phẩm, ta bắt gặp ngay ở tên đề “Người lái đò sông Đà”. Ở đây, tác giả miêu tả làm nổi bật con sông Đà nhưng đó không phải là trung tâm của tác phẩm mà cái ông muốn hướng đến là người lái đò. Ông miêu tả sâu sắc con sông Đà chỉ để làm nổi bật hình tượng người lái đò, chính nét đẹp vốn có được ẩn hiện trong con người nhỏ bé kia được tác giả khai thác đến. Nếu như sông Đà hiện lên với vẻ hùng vĩ, dữ dội thì người lái đò lại có sự chí dũng cao cường để chế ngự và sông Đà cơ vẻ đẹp nên thơ trữ tình thì người lái đò hiện lên với chất tài hoa nghệ sĩ đó là sự hòa hợp, đối xứng với thiên nhiên mà Nguyễn Tuân thấy được ở người lái đò.

Sự chí dũng, kiên cường của người lái đò được ông thể hiện ở trận thủy chiến với con sông Đà. Ở đây, có sự đối lập mà tác giả đem đến đó là giữa ông lái đò và con sông Đà. Ông lái đò là một người già yếu, nhỏ bé với sáu cánh chèo như que tre mà phải đối mặt với con sông Đà dữ dội, nước chảy hùm beo như muốn nuốt chửng người lái đò. Nhưng với sự chí dũng, kiên cường của mình, ông đã dũng cảm tiến về phía trước. Con sông Đà dữ dội, nó chia thành mấy đợt đánh và có chiến thuật riêng, đợt một nó có bốn cửa tử và một cửa sinh mà cửa sinh lại nằm phía tả ngạn, đợt hai ít cửa tử hơn và luồng sinh nằm ở phía hữu ngạn và ở đợt ba nó chỉ có hai cửa tử và luồng sinh ở đợt này lại nằm ở giữa những hòn đá tiền vệ. Nhưng với con mắt tinh tế, ông linh hoạt trong từng đợt đánh, có lần sông Đà liên tục tấn công làm người lái đò nôn nao trên chiếc thuyền nhỏ bé, chúng húc vào hông thuyền như muốn lật đổ, dù đã mệt mỏi, da tái nhợt đi nhưng với sự quyết tâm, ông lái đò ghì chặt những mái chèo để chiến đấu tiếp.

Là một người lái đò nhưng ông như một thiên hùng ca khi mà ông thuộc lòng những luồng sóng, vách đá thậm chí thuộc từng dấu phẩy, dấu chấm vì thế nên không ai làm khó được ông, cho dù con sông Đà có dữ dội đến mấy. Sau khi bị tấn công liên tiếp, ông lái đò ghì chặt mái chèo, xông thẳng lên như một viên tướng cầm quân đang thuần phục con tuấn mã, ông xông lên ngọn sóng ghì chặt nắm lấy dây cương sấn đôi nó ra để mở đường tiến. Ở sông Đà có những dãy đá được bày sẵn ra như một bát quái chở người lái đò đến nhưng sự thông minh, khéo léo, ông đã vượt qua nó một cách suôn sẻ. Là một người sống với nghề chèo đò vượt thác, người lái đò không lạ lẫm với sông nước với những trận thủy chiến như thế này. Tuy nhiên, ở ông ẩn hiện ra là vẻ đẹp của người lao động mang sắc thái của người nông dân Việt Nam cần cù, chăm chỉ, đó chính là “thứ vàng mười” được phát hiện qua con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân như một phát hiện mới mẻ mà các nhà văn đã bỏ qua. Cùng với sự phát hiện mới mẻ ấy, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại càng trở nên độc đáo hơn.

Không những thế, “chất vàng mười” còn được Nguyễn Tuân miêu tả ở chất nghệ sĩ tài hoa của người lái đò. Đây như một hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mà chỉ có những nhà văn chân chính mới có thể nhìn thấy. Văn chương phải có tâm hồn. Chính vì vậy, nhà văn luôn đi tìm những gì còn ẩn nấp sau tâm hồn kia như Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”. Ở Nguyễn Tuân, không chỉ có những người làm nghệ sĩ như ông thì mới được gọi là nghệ sĩ, những người với công việc thường ngày, họ làm hết mình với công việc của mình thì họ cũng là nghệ sĩ chân chính. Ông lái đò với nghệ thuật chèo đò vượt thác của mình, ông trở thành người nghệ sĩ chân chính. Nghề mà ông làm là một nghề mà trước Cách mạng không được coi trọng, bị xem thường. Nhưng qua đây, Nguyễn Tuân cũng cho ta thấy rằng đây không chỉ là một nghề chân chính, trong công việc ấy, ông làm trong sự im lặng như một sự cống hiến cho cách mạng, công việc ấy là công việc ông làm hàng ngày để kiếm kế sinh nhai để lo cho cả gia đình, không chỉ vậy mà còn làm đẹp cho xã hội. Trước công việc ấy, ông như một người anh hùng chính nghĩa đánh bại kẻ thù để tìm đến sự vang dội, oai hùng.

Chính lúc ấy, trong nghệ thuật chèo đò của mình, người lái đò còn được hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, đó là sau khi đánh trận thủy chiến, ông lái đò lại vào trong hang, mà mỗi khi ông đi là ông buộc một bu gà đằng sau. Đó không chỉ thể hiện đó là thời gian mà đó còn là gợi nhớ đến quê hương, nhớ đến mảnh đất sinh sống của mình. Trong cái hang ấy, tối và lạnh, ông đã đốt lửa và thấy như những làn khói của sông Đà. Cùng với con mắt quan sát tinh tế, người nông dân hiện lên như một vị thần sông nước, cùng với con thuyền bé nhỏ, như một vị tướng oai hùm giữa sông Đà dữ dội. Cũng chính có những con người như ông mà con thủy quái sông Đà mới được hàng phục, từ đó mà ta thấy cái mà Nguyễn Tuân thấy thật đẹp đẽ, một vẻ đẹp mà khó bắt gặp lần hai.

Nét đẹp của người lái đò thật mềm mại qua bút pháp của Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp ấy được thiên nhiên làm nên như một bức chân dung vững chãi đứng ở con sông Đà. Chất vàng mười mà ông khám phá như một nét độc đáo mà chưa có nhà văn nào đụng tới. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò được hiện lên là một người lao động linh hoạt, ông chính là con người tiêu biểu trong việc chế ngự thiên nhiên, để thiên nhiên phải hằng phục và phục vụ cho con người sau này. Việc làm cao cả được Nguyễn Tuân miêu tả sâu sắc làm nên nét độc đáo của tác phẩm.

Nguyễn Tuân là nhà văn “cả đời đi tìm cái đẹp”, sau chuyến đi Tây Bắc, nhà văn đã khám phá được “chất vàng mười” trong thiên nhiên và con người nơi ấy, thể hiện rõ nét qua hình tượng người lái đò sông Đà trong bút kí “Sông Đà”.

Trước hết, Nguyễn Tuân đã khám phá được ở con người lao động ấy vẻ đẹp của sự dũng cảm, kiên cường. Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa. Phải thấy được cái hùng vĩ, hiểm nguy của con thủy quái sông Đà, ta mới thấy được sự mưu trí dũng cảm của ông đò. Mở đầu bài là lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khẳng định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc Khẳng định cá tính độc đáo của. Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi. “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Ám ảnh, đe dọa con người. Vậy mà ông đò đã đối mặt với con thủy quái ấy suốt hơn 10 năm trời, chẳng hề ngại ngần đối mặt và chinh phục. Chỉ huy lèo lái con thuyền vượt qua những cửa ải hiểm nguy, dù đau nhưng vẫn cố nén vết thương, quả thực như một vị tướng gan dạ anh hùng.

Advertisement

Không chỉ kiên cường, dũng cảm, người lái đò còn mang vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài ba, cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò. Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được sự tài hoa khéo léo của ông đò.

Nguyễn Tuân đã tìm thấy được chất vàng mười trong con người Tây Bắc, họ là những người lao động vô danh nhưng lại mang trong mình một vẻ đẹp vừa anh hùng, vừa tài hoa đậm chất nghệ sĩ. Vẻ đẹp ấy chính là vẻ đẹp của thời đại mới, cuộc sống mới với bao tin tưởng, hy vọng.

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Nguyễn Tuân có sở trường về thể loại tùy bút. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc kết tinh được phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, được in trong tập “Sông Đà” (1960). Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động. Ở tùy bút này, ngoài hình tượng dòng sông Đà, hình tượng ông lái đò cũng là một hình tượng đặc sắc mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân.

Trước hết, ta phải hiểu chữ “vàng” trong câu nói của nhà văn không ứng với nghĩa đen. Ở đây, nhà văn muốn mượn của vàng (một thứ quý giá và đẹp đẽ) để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Nhưng vẻ đẹp và sự quý giá ấy không dễ tìm thấy, mà nó còn đang náu mình trong những vùng đất xa xôi. Nhà văn phải là người tìm kiếm, sàng lọc để phát hiện ra vẻ đẹp ấy , rồi bằng tài năng của mình mà bất tử hoá nó trong tác phẩm để “cống nạp”cho đời thường những “thỏi vàng mười” của thiên nhiên đất nước và con người. Ý kiến khẳng định thành công của Nguyễn Tuân trong việc khám phá và xây dựng vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong cuộc sống lao động bình dị.

Thật vậy, trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra“chất vàng” quý báu của một dòng sông: “ Đà giang độc bắc lưu” là một dòng sông hung bạo, dòng sông của sức sống mãnh liệt. Tính cách hung bạo của dòng sông được cảm nhận ở những đoạn sông đầy đá chìm và thác dữ. Nhưng bên cạnh sự hung bạo ấy ta vẫn thấy ở sông Đà một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Cái dữ dội hùng vĩ của sông Đà trước hết là ở cảnh “ đá bờ sông dựng thành” rồi đến “ nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm”, rồi những hút nước xoáy tít”….

Đặc biệt, trong vẻ dữ dội, man dại của sông Đà, ta thấy cái quý giá của sức nước, thấy hiện ra những “tuốc bin thuỷ điện” .Đó chính là chất “vàng” quý giá của tài nguyên thiên nhiên đất nước. Cho nên, cái quý giá ở đây chính là một tiềm năng lớn lao ngay trong vẻ hoang dại, phóng khoáng và sức mạnh bạo liệt của dòng sông.

Nhưng chất “vàng” của sông nước Tây Bắc không chỉ ở sự quý giá mà còn ở vẻ đẹp của sông Đà. Đó là hình ảnh của một dòng sông thơ mộng, trữ tình với hình dáng mềm mại “tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, hay như một “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải…”. Cảnh sắc hai bên bờ sông cũng rất đỗi thơ mộng “ như bờ tiền sử”, “hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”…Cái hay của nhà văn là cách dùng nghệ thuật so sánh dồn dập đã làm hiện lên một cách sinh động vẻ đẹp của dòng sông.

Cùng với sự quý giá của thiên nhiên là sự quý giá của người dân lao động Tây Bắc. Chất “vàng mười”quý giá của người lao động trong bài tùy bút chính là hình ảnh ông lái đò trên sông. Trong câu nói của mình, Nguyễn Tuân có dụng ý khi dùng chữ “vàng” để nói về màu sắc sông núi và chữ “vàng mười” để chỉ vẻ đẹp và giá trị của con người lao động.Đồng thời, nhà văn cũng ngầm ý rằng :cái quý báu trong phẩm chất , tài năng của con người phải được tôi luyện trong cuộc sống, giống như vàng được tôi luyện trong lửa vậy. Vẻ đẹp tài nguyên Tây Bắc thật quý giá.Nhưng con người Tây Bắc phải đẹp hơn, quý giá hơn trong việc chinh phục và cải tạo thiên nhiên.

Trong tác phẩm, con người mang chất “vàng mười” quý giá ấy lại là một con người lao động bình thường, một người vô danh là nghề lái đò dọc trên sông Đà. Nhưng con người vô danh ấy nhờ lao động, nhờ chinh phục , chế ngự thiên nhiên hung bạo như sông nước Đà giang đã trở nên lớn lao , kỳ vĩ:

Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của người lao động bình thường: (không tên, tuổi, quê quán. Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân. Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.

Ông lái đò là người từng trải trong nghề. Ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…

Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng.

Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà

Ông lái đò là người mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống lao động hàng ngày. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Con sông Đà hung hãn tạo ra một thách thức ghê gớm cho người lái đò.

Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đạt nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.

Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.

Ông lí đò đích thực là một nghệ sĩ tài hoa. Nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa: sự điêu luyện trong nghề khi lái đò vượt qua 3 thạch trận); trí nhớ siêu phàm, nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do; phong thái nghệ sĩ sau cuộc chiến đấu với sông Đà.

Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Đó thực sự là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” đến trăm lần.

Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới. Ông rất giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí. Đó là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

Vẻ đẹp của người lái đò thể hiện ở tài nghệ của một “tay lái ra hoa”. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tung ra một “đạo binh ngôn từ” hùng hậu để miêu tả cho thật hấp dẫn và hùng tráng cuộc thuỷ chiến sông Đà. Trong những cuộc thuỷ chiến ấy, ông đò đã bằng sự dũng cảm, phi thường, mưu trí để vượt qua hết vòng vi này đến vòng vi khác.Ông giành thế chủ động bởi ông ông lái đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”.Ông lái đò đã cưỡi lên thác ghềnh của sông Đà như một lão tướng dày dạn kinh nghiệm .Hình ảnh ông đò như mang dáng dấp của những anh hùng trong các thiên anh hùng ca thời cổ đại.

Chất “vàng mười” trong tài trí con người ở đây còn là sự dũng cảm , gan dạ, tài ba của người cầm lái mà đường lái đạt đến độ điêu luyện, siêu phàm: ông “ghì cương lái miết phong nhanh vút vút cửa ngoài, cửa trong”, “thuyền như một mũi tên tre”…Ông lái đò như một nghệ sĩ tài ba với một nghệ thuật cao cường đang luồn tránh, lái lượn trên dòng nước hung bạo của Đà giang.Tài nghệ siêu phàm ấy chính là thứ “vàng mười”ngời ngời tỏa sáng giữa thiên nhiên hùng vĩ của Tổ quốc.

“Người nghệ sĩ phải xâm nhập sâu vào đời sống nhân dân. Anh phải nhập đến một mức độ nào đó thơ mới hình thành. Thơ chỉ tràn ra khi trong tim anh cuộc sống đã thật ứ đầy”. Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc. Ông đích thực là “thứ vàng mười đã qua thử lửa”, một chất vàng ròng đáng quý của miền Tây Bắc hùng vĩ.

Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Với tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác.

Mênh Mang Vẻ Đẹp Dòng Sông Thơ

Những câu hát êm đềm được trích từ ca khúc “Cô gái trên dòng sông Volga” đã ít nhiều lột tả được vẻ đẹp lãng mạn nên thơ của con sông xanh chảy dài trên mọi miền nước Nga.

Những câu hát êm đềm được trích từ ca khúc “Cô gái trên dòng sông Volga” đã ít nhiều lột tả được vẻ đẹp lãng mạn nên thơ của con sông xanh chảy dài trên mọi miền nước Nga.

“Sông Volga lúc sương chiều buông dần

Hồng từng áng mây trôi về đâu?

Hàng bạch dương bóng soi dòng sông dài

Từng làn khói vấn vương bên thuyền.”

Dòng sông xanh biếc một màu

Sông Volga bắt nguồn từ vùng đồi Valdai, chảy dài qua các tỉnh miền Tây nước Nga tạo nên một nền tảng cho hệ thống sông ngòi lớn nhất châu Âu và sau đó đổ ra cửa biển Caspi. Sông Volga cung cấp lượng nước cho thủy lợi và phát điện, tạo ra một hệ thống kênh đào dày đặt nối liền Moskwa với biển Baltic và biển Đen. Volga còn tạo nên một vùng đồng bằng châu thổ trù phú với nhiều loại khoáng sản quý và nghề trồng lúa mì phát triển rộng rãi, về sau đã hình thành nên thành phố công nghiệp hiện đại Volgograd dọc bên bờ sông, biến sông Volga dần trở thành một huyết mạch chính cho quá trình phát triển kinh tế và văn hóa ở vùng đất này.

Không kém phần đặc sắc, sông Danube bắt nguồn từ vùng rừng Đen của Đức và đổ ra biển Đen, chảy qua nhiều nước Trung và Đông Âu nên cảnh sắc hai bên bờ sông đặc biệt ấn tượng và vô cùng thu hút du khách gần xa. Châu thổ sông Danube lớn thứ hai trên thế giới và được xếp vào hàng di sản vì đây là một vùng đất ngập nước quan trọng và là nơi cư ngụ của nhiều loài động vật quý hiếm trên thế giới. Sông Danube mang tính liên kết và hợp tác quốc tế, nhiều hiệp ước đã ra đời nhằm bảo vệ duy trì sự trù phú của dòng sông và cảnh sắc hai bên bờ, tạo nền tảng cho việc thúc đẩy du lịch xuyên quốc gia trên dòng sông Danube.

Khác biệt với các cung đường truyền thống khi mà du khách phải di chuyển bằng xe sẽ khó cảm nhận hết được mọi nét đẹp của từng điểm đến. Du thuyền cao cấp sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo giúp du khách tiết kiệm nhiều thời gian di chuyển, mà có thể khám phá được nhiều khung cảnh mới lạ đặc sắc. Những chiếc du thuyền cao cấp được xem như là một khách sạn di động với các phòng ốc sang trọng đầy đủ tiện nghi. Những nhà hàng với nhiều món ăn đặc sản cho từng điểm đến sẽ dễ dàng tìm thấy ngay trên du thuyền, bên cạnh đó các nhà hát luôn sẵn sàng phục vụ du khách với nhiều tiết mục nghệ thuật dân gian tiêu biểu của từng đất nước mà dòng sông chảy ngang. Đi trên du thuyền là cách duy nhất để du khách ngắm nhìn trọn vẹn được ánh bình minh rực rỡ và bóng hoàng hôn dịu dàng ngay trên dòng sông Volga và Danube hiền hòa nên thơ. Và đó cũng là cách du khách tận hưởng được sự bình yên đến tĩnh lặng ngay trong chính tâm hồn của mỗi người.

Hai bên cảnh sắc một màu cổ xưa

Còn riêng với sông Danube sẽ đưa du khách đến với thị trấn Pecs của đất nước Hungary được xem là một viên ngọc kiến trúc của thế giới cổ đại. Quảng trường Szencheni Square rộng lớn là nơi được bao phủ bởi hàng loạt cây xanh chạy dọc trên các ngõ đường, ngoài ra còn có các cửa hàng buôn bán tấp nập những bức tranh sơn dầu tuyệt đẹp, đồ thủ công mỹ nghệ tinh xảo mang dáng vóc của sự tỉ mi tinh tế trong từng chi tiết. Khu phố Kaptalan thu hút mọi ánh nhìn của du khách bằng các công trình kiến trúc cổ với những điểm sáng nổi bật từng đường nét biểu trưng cho thời kì Phục Hưng rực rỡ ở châu Âu. Ghé thăm nhà thờ Chính Tòa du khách sẽ được khám phá lối xây dựng cũng như những quan niệm ẩn bên trong một công trình tôn giáo có niên đại từ thế kỉ 11. Vào cuối ngày, du khách thưởng thức một buổi hòa nhạc ngắn tại nhà thờ, ngắm nhìn dòng sông Danube lững lờ trôi trong tiếng chuông vang vọng khắp bầu trời, một chút thư thái, một chút hoài niệm sẽ đong đầy những cảm xúc bất tận của du khách trước sự mênh mông của vẻ đẹp dòng sông thơ.

Du ngoạn bằng du thuyền cao cấp trên dòng sông Volga và Danube sẽ giúp du khách khám phá hết được vẻ đẹp nên thơ lãng mạn, những khung cảnh kiến trúc cổ xưa kì bí của châu Âu trước kia và ngày nay. Volga và Danube, là những gì dịu dàng trong cái năng động nhất, là những gì mềm mại trong cái cứng rắn nhất, là những gì xưa nhất trong cái mới nhất, là sợi dây kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa những bình yên lắng đọng nhất trong tim của mỗi du khách gần xa.

Đăng bởi: Hùng Hoàng

Từ khoá: Mênh mang vẻ đẹp dòng sông thơ

Văn Mẫu Lớp 12: Nghị Luận Về Góc Nhìn Khác Suy Nghĩ Khác (5 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 12

Cuộc sống muôn hình vạn trạng khiến chúng ta gặp vô vàn những vấn đề cần giải quyết trong cuộc sống. Ở nhiều khía cạnh, mỗi người cần phải thay đổi sự nhìn nhận của mình mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn. Có người đã từng cho rằng “thay đổi tầm nhìn và cách suy nghĩ của bản thân” sẽ giúp chúng ta đạt đến thành công trong cuộc sống. Thay đổi tầm nhìn và cách suy nghĩ của bản thân là thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về sự việc, con người của mỗi cá nhân trong những thời điểm khác nhau.Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta cần có tầm nhìn bao quát, nghĩ rộng hơn, suy nghĩ sâu hơn, luôn có thái độ tích cực, lạc quan để giải quyết mọi tình huống một cách thấu đáo. Đừng chỉ chìm đắm trong lối suy nghĩ tiêu cực, thất vọng vì những điều diễn ra không như mong muốn. Thay vào đó, hãy nhìn những trở ngại đó là thách thức cần phải vượt qua bằng mọi cách. Người có suy nghĩ tích cực thì cơ hội thành công trong cuộc sống sẽ cao hơn đồng nghĩa với việc tạo dựng được những thành quả từ chính sức lực, trí tuệ, lối sống của mình. Nhà vua trong văn bản “Góc nhìn” nhờ thay đổi tầm nhìn mà đã đưa ra quyết định đỡ tốn kém và mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, cuộc sống vẫn tồn tại những người bảo thủ, không chịu thay đổi để thích nghi, dễ rơi vào những suy nghĩ tiêu cực và dẫn đến những hành động lệch lạc. Từ nhận thức sâu sắc về ý nghĩa to lớn của việc cần phải thay đổi tầm nhìn và cách suy nghĩ, mỗi người cần tích cực phấn đấu rèn luyện trong học tập, trong cuộc sống, bồi dưỡng lòng tự tin, ý thức tự chủ, cố gắng thay đổi chính mình trước khi nghĩ đến việc thay đổi người khác và thế giới.

Con người có đôi mắt để nhìn đời phân biệt đục-trong, phải – trái, đúng – sai… Tuy nhiên, nếu chỉ đánh giá mọi việc bằng đôi mắt của mình, có khi chúng ta sẽ mắc phải những sai lầm. Bức vẽ trên cho thấy: Nếu đứng ở góc độ khác nhau, ta sẽ có những cách nhìn, cách nghĩ khác nhau.

Bức vẽ ghi lại cuộc tranh luận của hai người đứng ở hai phía khác nhau. Họ sẽ không tìm được tiếng nói chung, vì ai cũng cho là mình đúng. Cuộc tranh luận sẽ không có hồi kết nếu như hai người không cùng đứng về một phía để nhìn nhận sự việc. Hơn nữa, mỗi người phải biết đặt mình vào vị trí của người khác để được thấu hiểu đúng hơn. Từ đó, bức vẽ đặt ra cho chúng ta một vấn đề: để đánh giá một sự việc một cách đúng đắn, hãy xem xét nó ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ.

Chi tiết trong bức vẽ cho thấy từ những góc nhìn khác nhau, không ai đúng hoàn toàn và cũng không ai sai, mỗi người có lí giải riêng, đúng theo góc nhìn riêng của mình.

Những cuộc tranh luận tương tự diễn ra hằng ngày, từng giờ từng phút, trong gia đình, trường học, cơ quan, đường phố, trên các phương tiện truyền thông… dường như hiếm khi đi đến hồi kết vì không cùng một góc nhìn. Truyện cười dân gian Việt Nam xưa “Thầy bói xem voi” đã từng nhắc chúng ta về hiện tượng này.

Ý nghĩa của bức tranh khiến chúng ta không ngừng suy ngẫm. Nếu chúng ta cứ đứng ở một góc nhìn mà đánh giá sự việc, con người, không chịu đặt mình vào góc nhìn của người khác, thì ý kiến của mình thiếu khách quan và trở nên thiển cận.

Những mâu thuẫn không đáng có trong các mối quan hệ, những thiệt hại đáng kể trong kinh doanh, trong công việc… cũng bắt đầu từ chỗ không bao quát, không nhìn từ nhiều phía trước khi đưa ra nhận định. Cần khiêm nhường đặt mình vào vị trí của đối phương để hiểu người, hiểu việc là thái độ sống khôn ngoan của người thành công.

Nguyên nhân dẫn đến việc mỗi người có một nhận định khác nhau khi cùng đánh giá một sự việc là bởi họ đứng ở góc nhìn khác nên có tầm nhìn khác, từ đó nhận định cũng khác những người còn lại. Mặt khác, bản thân mỗi người có tính bảo thủ, cố chấp, chủ quan, không muốn lắng nghe, không thừa nhận cái đúng của người khác.

Bức tranh phản ánh một sự thật trong cuộc sống, có nhiều người thiếu sáng suốt, lười tư duy và nhận định chủ quan về những gì họ nhìn thấy trong cuộc sống. Đây là bản tính mà ai cũng có.

Phê phán: Trong cuộc sống không hiếm người giống “thầy bói xem voi”, phiến diện, hẹp hòi khi đánh giá mọi việc…

Bài học: Để nhận định vấn đề một cách đúng đắn, chúng ta phải thay đổi góc nhìn, phải đặt mình vào vị trí của mọi người đến tìm hiểu mọi việc một cách toàn diện hơn. “Không có gì tầm thường trên thế giới. Tất cả đều phụ thuộc vào góc nhìn”.

Bức biếm họa đơn giản nhưng lại đem đến cho mọi người một lời nhắc chân thành sâu sắc: Hãy đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu người, hiểu đời, hiểu chuyện hơn. Cần có một góc nhìn khác, suy nghĩ khác nhưng nếu đứng ở góc độ sai lầm thì cần khiêm nhường tiếp nhận ý kiến của người khác để nhận thức đúng về những sự việc trong cuộc sống.

Góc nhìn khác là rời bỏ quan điểm cũ, kinh nghiệm cũ, tách mình ra khỏi tâm lý chung của xã hội để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng ở những khía cạnh chưa được phát hiện. Góc nhìn khác cũng có thể hiểu là quan tâm đến nguyên nhân của hiện tượng và tìm cách giải quyết, đáp ứng các nhu cầu thực tế.

Từ những kiến thức thu được, ta tiến hành suy nghĩ, đối chiếu biểu hiện các sự vật hiện tượng và tìm kiếm một giải pháp phù hợp bằng những hành động cụ thể nhằm mang lại một kết quả tốt đẹp. Đó là suy nghĩ khác biệt.

Muốn sáng tạo phải có những suy nghĩ khác thường, vượt lên trên cái bình thường. Thực tế đã minh chứng cho điều đó một cách đầy thuyết phục. Nếu không nghĩ khác những gì mà nhân loại đang nghĩ thì Newton không thể sáng tạo ra học thuyết Vạn vật hấp dẫn thống trị trên bầu trời vật lí đến hơn 300 năm. Nếu không “điên rồ” tưởng tượng thì Einstein đâu thể tìm ra Thuyết tương đối, đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nền khoa học hiện đại. Nếu không vượt ra khỏi tư tưởng và con đường của các bậc tiền bối thì Bác Hồ đâu thể tìm thấy con đường giải phóng dân tộc khỏi áp bức. Vượt ra khỏi khuôn khổ đưa ta đến với những chân trời mới.

Cuộc sống luôn là một quá trình cạnh tranh khốc liệt để sinh tồn. Trong khi, thế giới luôn phát triển. Cơ hội thành công lại không dành cho tất cả. Suy nghĩ khác, nhìn nhận khác biệt về thế giới để tìm kiếm cơ hội vươn lên cho mình. Cơ hội luôn tàng ẩn trong cuộc sống, không phải lúc nào cũng biểu hiện rõ ràng. Cái thực sự giá trị luôn bị che phủ bởi những cái bình thường khác. Như kim loại quý luôn nằm sâu trong lòng đất. Hạt ngọc được giấu kín trong lớp vỏ cứng của con trai. Cần thay đổi tư duy, gạn lọc cái bình thường để phát hiện chiếm lĩnh các giá trị chân thực bị che lấp ấy.

Suy nghĩ khác, góc nhìn khác giúp ta có cái nhìn toàn diện về sự vật, hiện tượng. Nó còn giúp ta tránh được lối suy nghĩ thiển cận, phiến diện. Nó bồi dưỡng cho ta tri thức mới mẻ.

Biết suy nghĩ khác biệt tạo nên tính năng động trong tư duy. Đó chính là cơ sở và động lực để con người sáng tạo và thành công. Steve Jobs đã không ngần ngại suy nghĩ về một sản phẩm khác biệt trong nhiều năm. Cuối cùng ông đã tạo ra được chiếc Iphone huyền thoại. Harland Sanders đến gần cuối cuộc đời mới nhận ra sự khác biệt của món gà rán do ông sáng tạo và gặt hái thành công lớn sau bao năm tháng vất vả. Tất cả là nhờ có điểm nhìn khác biệt, suy nghĩ khác biệt.

Phải làm gì để có được góc nhìn khác, suy nghĩ khác? Trước hết là dũng cảm rời bỏ những điều được cho là chắc chắn và nguyên tắc có sẵn. Bởi cuộc sống luôn phát triển, tri thức không ngừng tăng cao, không có gì là chắc chắn mãi mãi. Những ưu điểm của hôm qua có thể là nhược điểm của hôm nay. Những nguyên tắc có thể giúp ta có dễ dàng tiến hành công việc nhưng cũng hạn chế tầm nhìn.

Sáng tạo và khác biệt luôn là hai yếu tố có tính động lực của mọi thành công. Đặc biệt là trong khởi đầu một công việc, khởi đầu một chiến lược mới. Cái đã có vốn được kiện toàn theo thời gian và ngày thêm vững mạnh. Muốn tạo ra cái mới, đủ sức cạnh tranh với cái cũ và đi đến thắng lợi nhất định chúng phải biết làm khác biệt.

Hãy luôn thay đổi tư duy ngay trong suy nghĩ và hành động. Như tỷ phú hàn Quốc Lee Kun Hee đã từng nói: “Hãy thay đổi tất cả trừ vợ và con”. Phải thay đổi để thành công vì tri thức luôn bị phủ nhận trong tiến trình phát triển vượt bậc. Hãy thay đổi cái cần thay đổi, đó là tư duy, và giữ lại những gì đáng gìn giữ, đó là tình cảm.

Hãy luôn tích cực vận động để tư duy được tiếp cận với cái mới nhất, tiến bộ nhất. Hãy chú ý đến những điều mà người khác không chú ý hoặc chưa chú ý và tìm cách khai thác chúng.

Tăng cường học tập và rèn luyện mình là cơ sở để có suy nghĩ khác, góc nhìn khác. Không cần bạn phải thông thuộc hay giỏi giang trong công việc. Chỉ cần bạn biết kết nối các giá trị trong một chuỗi hợp lý. Nhất định bạn sẽ tìm thấy được điều mới mẻ mà người khác không thể nhìn thấy được.

Hãy say mê làm việc và tận tâm với công việc đang làm. Không có động lực nào tốt hơn giúp ta làm việc hiệu quả ngoài tình yêu đối với nó. Hãy tin tưởng vào lợi ích chúng ta sẽ có được mỗi khi ta hoàn thành tốt công việc. Gian khó luôn xuất hiện trước và gây khó khăn cho ta. Thành quả luôn đến sau cùng và sẽ hết sức ngọt ngào.

Tạo góc nhìn khác, suy nghĩ khác giúp ta tránh được sự cạnh tranh của đối thủ. Khi cùng khai thác một nguồn lợi, con người thường tiến hành khảo sát, đánh giá tiềm năng nguồn lợi ấy. Kết quả đánh giá sẽ là cơ sở để đưa ra các quyết định quan trọng. Cùng suy nghĩ như đối thủ ta cũng có được một kết quả và chính sách như đối thủ mà thôi. Suy nghĩ khác cũng không có nghĩa là làm ngược lại đối thủ. Suy nghĩ khác tức là bằng một góc nhìn khác, một quan điểm khác tiến hành quan sát và đánh giá đối tượng. Từ đó tìm kiếm khả năng khai thác chúng.

Trong cuộc sống vẫn còn có nhiều người luôn bảo thủ. Họ cố chấp với kinh nghiệm cũ mà không chịu thay đổi. Họ không thể rời bỏ được thói quen nhìn nhận hay đánh giá sự vật. Họ không chịu sáng tạo hay cố công tìm kiếm những suy nghĩ khác biệt. Họ không toàn tâm trong công việc và dễ dàng chấp nhận thất bại. Những người như thế sẽ không thể thành công trong công việc và trong cuộc sống.

Phải luôn có suy nghĩ khác, góc nhìn khác để tìm kiếm và phát hiện cơ hội. Nắm bắt cơ hội là khởi điểm của thành công. Là học sinh phải luôn năng động, sáng tạo, vượt qua những kinh nghiệm hoặc tri thức cũ kỹ, lạc hậu, say mê tìm kiếm cái mới mẻ và tiến bộ trong cuộc sống này.

Từ bài học bán giày của hai công ty, chúng ta nhận ra rằng nếu không có góc nhìn khác, suy nghĩ khác sẽ dễ dẫn đến thất bại. Muốn thành công thì phải luôn luôn thay đổi. Đổi mới có thể khiến bạn cảm thấy khó khăn hơn. Nhưng nó có thể mang lại những điều mới mẻ và thành công vượt trội mà bạn cũng không ngờ tới được.

Nhà văn Johann Wolfgang von Goethe đã từng nói: “Không có gì tầm thường trên thế giới. Tất cả đều phụ thuộc vào góc nhìn”. Cuộc sống này như thế nào là hoàn toàn phụ thuộc vào cách bạn nhìn nhận nó. Thay đổi góc nhìn sẽ giúp bạn thấy được nhiều cơ hội mới mà trước đó bạn không làm sao thấy được.

“Góc nhìn” là một hình ảnh ẩn dụ mà ý muốn nói đến là suy nghĩ riêng biệt trong mỗi con người. Ta nghe mọi chuyện, nhìn thấy mọi chuyện, làm mọi chuyện bằng mọi suy nghĩ của mình. Trước khi làm việc gì cũng đều phải suy nghĩ và đưa ra quyết định rồi thực hiện và kiên trì với quyết định ấy. Chính vì vậy, khi ta làm việc gì cũng phải dùng suy nghĩ và nhận định của bản thân, bằng góc nhìn của chính mình.

Mỗi người khác nhau đều có góc nhìn khác nhau, không ai có thể có góc nhìn giống nhau. Ví dụ một người nhìn từ phía trước của chiếc xe ô tô thì không thể giống với một người nhìn từ phía sau xe. Đó gọi là góc nhìn khác.

Nhưng góc nhìn cũng rất quan trọng vì tuỳ vào mỗi góc nhìn mà cảm xúc con người khác nhau. Và góc nhìn khác cũng tuỳ thuộc vào tâm trạng con người. Như là khi xem một người làm xiếc người lạc quan sẽ cảm thấy nó thật thú vị nhưng người hay sợ sệt lại cảm thấy nó nguy hiểm. Vì thế mới nói rằng mỗi người đều có góc nhìn của mình. Nhìn sai hay đúng là do tâm trạng và góc nhìn của họ, chúng ta không nên trách móc hay chê cười.

Ngoài ra, cuộc đời mỗi con người, hãy thử vài lần có suy nghĩ khác người thì sẽ sẽ rất thú vị. Người bình thường nhìn vào thác nước chỉ nghĩ nó đẹp nhưng người có suy nghĩ khác sẽ thắc mắc rằng: “Tại sao thác nước luôn chảy xuống mà không phải là chảy lên?” Nếu bạn là một người có suy nghĩ khác, khi nói ra suy nghĩ của bạn cho mọi người xung quanh, họ sẽ nghĩ bạn thật không bình thường.

Nhưng đừng để ý đến những người đó, cứ giữ những suy nghĩ lạ lùng của mình thì có thể bạn sẽ tìm ra được những điều vĩ đại. Có thể lại trở thành nhà bác học đấy! Hãy luôn có suy nghĩ khác người! Nó sẽ khiến cho cuộc sống bạn thú vị, kì lạ hơn.

Những nhân tài trẻ hiện nay là biểu tượng cho những góc nhìn và suy nghĩ khác. Họ thay đổi và mới mẻ liên tục không ngừng. Mỗi người một cái nhìn, một suy nghĩ và một quan niệm. Đấy là những ưu thế của người trẻ hiện nay. Họ có nhiệt huyết, ý tưởng sáng tạo nên dám nghĩ và dám làm. Những góc nhìn và suy nghĩ khi họ phô bày ra ta có thể thấy một điều mới mẻ mà từ trước đến giờ chưa được hiểu biết, được trông thấy. Vì vậy đất nước ta rất trọng dụng những nhân tài trẻ của như thế. Trọng dụng vì góc nhìn mới mẻ và đầy sáng tạo của họ.

Góc nhìn dựa trên những thứ sáng tạo, suy nghĩ, nhận định… tạo nên nó. Vì vậy, những người họa sĩ và những bức tranh gắn liền với những góc nhìn một cách thường xuyên. Bức tranh Mona Lisa của vị họa sĩ đại tài Leonardo Da Vinci được nổi danh nhờ sự sáng tạo và hơn hết là góc nhìn của mỗi người xem dành cho nó. Người xem chiêm ngưỡng bức tranh bằng cả tấm lòng và cộng thêm góc nhìn trong mỗi người để thấy được cái độc lạ của nó. Từ minh chứng, cũng có thể thấy được nỗi một tác phẩm nghệ thuật là dùng mỗi một góc nhìn của mỗi người để nhận xét và đánh giá chúng.

Ngày nay xã hội tiên tiến và ngày càng hiện đại hóa hơn. Vì vậy, việc dùng các trang mạng xã hội và công khai các dòng suy nghĩ, trạng thái hay hình trên mạng xã hội. Những mỗi một tài khoản là mỗi một suy nghĩ và một góc nhìn riêng của từng người. Khi đăng tải, một hình ảnh nào lên thì lại nhiều ý kiến trái chiều đi xung quanh nó. Có người có góc nhìn thoải mái, đơn giản thì họ cho việc làm đó là bình thường. Nhưng có những người học có góc nhìn tiêu cực hơn và họ nhận định nó là điều xấu. Vì vậy, trong mỗi việc làm cũng đều khiến mọi người tạo cho ta nhiều góc nhìn. Họ đứng ở vị trí khác và dùng những suy nghĩ khác nhau cũng sẽ có những kết luận trái chiều.

Advertisement

Có kết luận là đúng, có góc nhìn cho bản thân là đúng nhưng không thể lạm dụng những hình ảnh văn minh, lịch sự và dùng suy nghĩ, góc nhìn sai lệch để đưa ra kết luận không chính xác. Những hình ảnh phản cảm gián tiếp tạo cho người xem một góc nhìn tiêu cực hay sai lệch so với ý nghĩa thực sự.

Sáng tạo là động lực của sự tiến bộ. Hãy là người luôn tích cực cho ra muôn ngàn góc nhìn để nhận xét một sự việc, sự vật. Để trở thành một người thành công ta không phải chỉ có một góc nhìn mà là rất nhiều góc nhìn. Hãy nói với tôi rằng bạn có thể tạo được góc nhìn của chính mình. Một góc nhìn sáng tạo, mới lạ và khác biệt. Góc nhìn là thứ quan trọng trong cuộc sống. Đừng sống bằng cuộc đời của người khác nếu bạn có thể tự xây dựng một cuộc đời của riêng mình bằng tính góc nhìn khác, suy nghĩ khác.

Trong cuộc sống, mỗi con người là một cá thể độc lập có chứng kiến của riêng mình và vẫn có những mối quan hệ ràng buộc khác nhau với các cá thể khác trong cộng đồng con người. Vì hoàn cảnh xuất thân khác nhau, trải nghiệm cuộc đời và quan điểm sống của mỗi người là khác nhau nên chẳng ai có thể giống ai 100% cả. Mỗi người chúng ta là độc nhất và chúng ta có nhân sinh quan sống của bản thân mình. Tuy nhiên, những góc nhìn khác nhau những suy nghĩ khác nhau sẽ đem đến cho cuộc sống những lăng kính đa màu vô cùng đa dạng.

Đầu tiên, chúng ta sẽ bàn về nguyên nhân của sự khác biệt trong góc nhìn và suy nghĩ của mỗi người. Ngoài những yếu tố khách quan như hoàn cảnh xuất thân, gia đình, bạn bè,… thì con người hình thành cách nghĩ và phong cách sống của mình trong suốt cuộc đời của mình. Cơ bản, không al là giống ai, quan điểm sống khác nhau dẫn đến góc nhìn và cách suy nghĩ sẽ khác nhau. Ví dụ, đứng trước 1 sự việc, người thì cảm thấy buồn cười vì anh ta từng gặp điều đó trong cuộc sống nhưng có người lại cảm thấy nhạt nhẽo vì anh ta thấy tình tiết quá đơn giản,…

Vì vậy, xã hội con người giống như một bàn tay thu nhỏ vậy. Trên bàn tay thì có ngón ngắn ngón dài. Có những lúc mâu thuẫn giữa người với người là không thể tránh khỏi do quan điểm của mỗi người là khác nhau. Những vấn đề ở chỗ chẳng có ai sai, cũng chẳng có ai đúng trong 1 số trường hợp nhất định. Nhìn từ góc nhìn này, người A thấy vấn đề nên đi theo hướng abc, nhưng ở vị trí người B thì thấy vấn đề này chẳng cần phải bàn đến chẳng hạn,… Trong cuộc sống, khi chúng ta không trải qua những nỗi đau thì làm sao thấu hiểu được cảm giác mất mát của người kia?

Nhưng điều mà không phải ai cũng làm được khi xảy ra mâu thuẫn đó chính là sự phủ định biện chứng. Sự phủ định đơn giản là xóa bỏ sự tồn tại của một sự vật, hiện tượng A nào đó. Nhưng sự phủ định biện chứng thì khác hoàn toàn. Sự phủ định biện chứng là khi xóa bỏ sự công nhận về một sự việc nào đó nhưng trên nền tảng của sự phủ định đó, cái mới và tiến bộ hơn ra đời. Ví dụ, sự biến mất của con tằm là sự ra đời của con bướm xinh đẹp. Chính vì vậy, bài học đối với mỗi người chúng ta là chấp nhận những quan điểm, cách sống khác biệt. Chỉ khi chúng ta tôn trọng và trung hòa được những ý tưởng khác nhau, nếu tốt hơn thì dựa trên những mâu thuẫn đó mà đưa ra 1 cái tiến bộ nhất. Khi chúng ta làm được điều đó, mọi việc sẽ trở nên dễ dàng và nhẹ nhàng hơn rất nhiều thay vì tranh cãi và bảo thủ. Cuộc sống cần sự linh động, chấp nhận sự khác biệt để đưa ra cái tiến bộ như vậy.

Tóm lại, cuộc sống có những cách nhìn và lăng kính khác nhau. Điều chúng ta cần làm là biết chấp nhận những sự khác biệt đó, tôn trọng những sự khác biệt đó và đưa ra được giải pháp tốt nhất cho vấn đề chung.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Vẻ Đẹp Của Sông Hương Qua Góc Nhìn Địa Lý Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Của Hoàng Phủ Ngọc Tường trên website Xsye.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!