Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Nói Sách Là Người Bạn Lớn Của Con Người Dàn Ý & 12 Bài Văn Mẫu Lớp 7 # Top 12 Xem Nhiều | Xsye.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Nói Sách Là Người Bạn Lớn Của Con Người Dàn Ý & 12 Bài Văn Mẫu Lớp 7 # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Nói Sách Là Người Bạn Lớn Của Con Người Dàn Ý & 12 Bài Văn Mẫu Lớp 7 được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Xsye.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Giải thích câu Sách là người bạn lớn của con người

Tài liệu bao gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu hay nhất, dành cho học sinh lớp 7. Nội dung chi tiết được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.

1. Mở bài

Dẫn dắt giới thiệu về câu nói “Sách là người bạn lớn của con người”.

2. Thân bài

a. Giải thích câu nói

– “Sách” là một bản in bằng giấy có nội dung rất phong phú. Sách có từ khi loài người có chữ viết. Con người lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống: khoa học, nghệ thuật, đời sống…

– “Người bạn”: những con người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.

b. Vai trò của sách

– Sách cung cấp cho con người những hiểu biết, những tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống, vượt thời gian và vượt không gian.

– Sách cho ta hiểu biết về chính mình. Khi đọc được một quyển sách tốt, chúng ta được bồi đắp thêm về tâm hồn, tình cảm.

– Sách là phương tiện để ta có thể giao tiếp: giao tiếp với tác giả, với độc giả bao thế hệ để từ đó tự rèn luyện mình.

– Sách giúp con người vươn tới những ước mơ, khát vọng; giáo dục tình cảm, đạo đức; giáo dục ý thức thẩm mỹ…

– Nếu thiếu sách, cuộc sống con người sẽ rơi vào tăm tối, không có ánh sáng của tri thức, con người trở nên lạc hậu.

c. Liên hệ bản thân

Học sinh cần tích cực đọc sách, biết lựa chọn sách phù hợp với mục đích và nhu cầu, tuy nhiên sách phải có nội dung lành mạnh, tích cực.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của câu nói: “Sách là người bạn lớn của con người”.

Ý kiến “Sách là người bạn lớn của con người” gợi cho chúng ta suy nghĩ về vai trò của những cuốn sách. Về khái niệm, “sách” là sản phẩm do con người sáng tạo ra, một văn bản được in dưới dạng quyển, dùng để ghi chép, lưu trữ tri thức của nhân loại. Sách có rất nhiều thể loại, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Còn “bạn” hiểu đơn giản là những người có chung sở thích, lí tưởng hay mục tiêu. Cách so sánh “Sách là người bạn lớn của con người” cho thấy được tầm vai trò của sách với con người, cũng giống như vai trò của những người bạn vậy. Một người bạn tốt sẽ giúp chúng ta học hỏi được nhiều điều bổ ích. Sách là nơi lưu trữ toàn bộ nguồn tri thức của nhân loại. Bởi vậy, khi đọc sách, chúng ta sẽ học hỏi thêm được nhiều kiến thức bổ ích. Một cuốn sách giúp bạn có thêm nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn đã phải trải qua. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Ngoài ra, những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp để nỗ lực hướng tới tương lai. Qua những trang sách, chúng ta có thêm được niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi nghịch cảnh, khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta hãy yêu sách, trân trọng sách như yêu và trân trọng người bạn của mình.

“Sách là người bạn lớn của con người” – câu nói gợi cho mỗi người suy nghĩ về vai trò của sách. Hiểu đơn giản, “sách” là dạng một văn bản được in ra thành quyển, ghi chép những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn “bạn” là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu…; với “người bạn lớn” không phải chỉ về hình thức mà về giá trị, vai trò của người bạn đối với mỗi người. “Sách là người bạn lớn của con người” nhằm khẳng định được tầm quan trọng và vai trò lớn lao của sách đối với con người. Con người sáng tạo ra sách nhằm lưu giữ nguồn tri thức của nhân loại. Bởi vậy, khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ học được nhiều kiến thức bổ ích, mà không bị ngăn cách bởi không gian, thời gian. Ngoài ra, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Đọc sách còn để giải trí, thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Với những vai trò như vậy, chúng ta cần trân trọng sách như với chính người bạn.

Không thể phủ nhận được tầm quan trọng của sách trong cuộc sống của con người. Bởi vậy mà có ý kiến cho rằng: “Sách là người bạn lớn của con người”. Ý kiến trên đã gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ về vai trò của sách.

Chúng ta có thể kể đến rất nhiều định nghĩa khác nhau về “sách”. Nhưng có thể hiểu đơn giản rằng sách là dạng văn bản được in ra thành quyển, ghi chép những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn “bạn” là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu và “người bạn lớn” ở đây không phải chỉ về hình thức mà về giá trị, vai trò của người bạn đối với mỗi người. Như vậy, “sách là người bạn lớn của con người” đã khẳng định được tầm quan trọng và vai trò của sách đối với con người.

Con người sáng tạo ra sách nhằm lưu giữ nguồn tri thức của nhân loại. Bởi vậy, khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ học được nhiều kiến thức bổ ích, không bị ngăn cách bởi không gian, thời gian. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Ngoài ra, chúng ta đọc sách chỉ là để giải trí, thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng.

Bởi vậy, chúng ta cần trân trọng sách như với chính người bạn. Điều đó thể hiện không chỉ ở việc giữ gìn những cuốn sách cẩn thận. Mà còn ở cách đọc sách sao cho hiệu quả, không cốt lấy nhiều về số lượng mà chú trọng chất lượng. Cuốn sách được lựa chọn đọc phải phù hợp với mục đích của người đọc. Khi đọc sách, chúng ta cũng cần vừa đọc, vừa suy nghĩ kết hợp với ghi chép để hiểu được nội dung của cuốn sách.

Như vậy, ý kiến “Sách là người bạn lớn của con người” vô cùng giá trị. Chúng ta sẽ hiểu hơn về giá trị của sách, từ đó biết giữ gìn và trân trọng sách hơn.

Một tiểu thuyết gia người Mĩ đã từng khẳng định: “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được chọn lựa; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”. Câu nói giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của sách – “Sách là người bạn lớn của con người.

Có rất nhiều khái niệm về “sách”, nhưng hiểu đơn giản sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển, có chứa đựng một khối lượng thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn “bạn bè” là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu… “Sách là người bạn lớn của con người” có nghĩa là sách cũng giống như bạn bè vậy, có ảnh hưởng rất lớn đến mỗi người. Sách giúp cung cấp kiến thức bổ ích. Sách còn giúp chúng ta thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Có đôi khi, sách còn chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn với con người.

Bên cạnh kiến thức, sách cũng giống như người bạn, cùng chia sẻ với con người mọi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Một cuốn sách hay có thể giúp chữa lành những vết thương mà bạn đã trải qua. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Không chỉ vậy, sách còn là nơi giúp con người giải trí sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng và mệt mỏi.

Sách cũng có vai trò giáo dục, giống như người bạn có thể cho chúng ta lời khuyên khi chúng ta đi sai đường, hay định hướng chúng ta đến với những điều tốt đẹp. Những tác phẩm văn chương giàu giá trị giúp khơi dậy cho mỗi người biết xúc động, biết đồng cảm và chia sẻ. Những cuốn sách hướng nghiệp giúp chúng ta có được định hướng tốt trong cuộc sống… Khi xã hội càng phát triển, cũng sẽ có nhiều loại sách khác nhau. Giống như bạn bè, có bạn tốt cũng có bạn xấu. Con người cần biết lựa chọn sách để đọc sao cho hiệu quả, bổ ích.

“Một cuốn sách hay trên giá sách là một người bạn dù quay lưng lại nhưng vẫn là bạn tốt”. Và lời khẳng định sách là người bạn lớn của con người là hoàn toàn đúng đắn, giá trị.

Sách rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Bởi vậy mà có ai đó đã từng khẳng định rằng “Sách là người bạn lớn của con người”.

Trước hết, sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong sách chứa đựng một khối lượng thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn bạn bè là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu… Sách cũng giống như bạn bè vậy, có ảnh hưởng đến con người. Những cuốn sách hay có thể cung cấp những kiến thức bổ ích. Sách còn giúp chúng ta thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Có đôi khi, sách còn chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn với con người.

Trước hết, sách cung cấp cho chúng ta những kiến thức bổ ích. Bởi sách chính là nơi lưu giữ toàn bộ tri thức của nhân loại. Từ xưa đến nay, con người học tập đều cần có những cuốn sách hỗ trợ. Cũng giống như khi chúng ta quen biết với một người bạn hiểu biết nhiều, sẽ học hỏi được những kiến thức bổ ích.

Nhiều cuốn sách có khả năng định hướng con người về mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Từ đó, chúng ta sẽ nỗ lực không ngừng để có thể đạt được thành công. Cũng giống như một người bạn tốt, sẽ đưa ra những lời khuyên cho chúng ta trong mọi vấn đề.

Một cuốn sách hay còn có khả năng cảm hóa con người. Bởi vậy mà Hoài Thanh từng nhận định rằng: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Không chỉ vậy, sách còn giúp xoa dịu tâm hồn, trở thành một người bạn có thể chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống của mỗi người.

Chúng ta cần hiểu được giá trị của những cuốn sách để có thể biết trân trọng, và có phương pháp đọc sách đúng đắn. Lời nhận xét “Sách là người bạn lớn của con người” là hoàn toàn đúng đắn.

Có ai đó đã từng khẳng định rằng: “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được chọn lựa; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”. Quả thật, sách đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Bởi vậy mà “Sách là người bạn lớn của con người”.

Đầu tiên cần hiểu thế nào là sách? Có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về sách. Nhưng hiểu đơn giản nhất rằng sách chính là tri thức, là nơi con người có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, trau dồi và rèn luyện bản thân mình. Với “người bạn” thì dùng để chỉ những người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Khi so sánh “sách” với “người bạn lớn”, câu nói trên muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sách đối với con người.

Mỗi người bạn đều có những hiểu biết nhất định về một lĩnh vực nào đó. Khi chúng ta trao đổi với bạn bè sẽ giúp vốn hiểu biết tăng thêm. Và cũng giống như một người bạn, sách đã cung cấp cho con người thêm những kiến thức. Nhưng đặc biệt hơn cả là sách có thể giúp người đọc vượt qua mọi không gian và thời gian, thậm chí là mọi ngôn ngữ. Những kiến thức mà sách đem lại là vô tận, không giới hạn về lĩnh vực.

Một người bạn lớn còn dạy cho chúng ta những bài học quý giá. Một cuốn sách hay sẽ giúp con người bồi dưỡng được tâm hồn đẹp đẽ, tình cảm tốt đẹp. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Cũng giống như khi chơi với một người bạn tốt, chúng ta cũng sẽ cố gắng để hoàn thiện bản thân hơn.

Với tầm quan trọng như vậy, việc đọc sách cần phải có được phương pháp đúng đắn. Tác giả Chu Quang Tiền trong “Bàn về đọc sách” từng viết: “Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ”. Đây hẳn là một phương pháp đọc sách đúng đắn. Quỹ thời gian con người là vô hạn, nhưng số lượng sách lại vô hạn. Những kiến thức mà chúng ta học được giống như một giọt nước giữa đại dương vô tận. Vậy nên, khi đọc sách, chúng ta không nên quá quan trọng việc mình đã đọc được bao nhiêu cuốn, đó là nhiều hay ít. Mà quan trọng nhất là khi đọc sách cần vừa đọc, vừa ngẫm nghĩ để hiểu được nội dung cuốn sách đó một cách sâu sắc nhất.

Quả thật, những cuốn sách chính là “người bạn lớn” của con người. Không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của những cuốn sách.

Trong cuộc sống, sách đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Một cuốn sách chính là “người bạn lớn của con người”.

“Sách là người bạn lớn của con người” đã cho thấy tầm quan trọng của sách. Nó giống như người bạn đồng hành cùng với con người vượt qua mọi thử thách. Những cuốn sách cũng giống như những người bạn, dạy cho mỗi người nhiều bài học bổ ích. Không chỉ là những bài học kiến thức mà còn là bài học cuộc sống.

Đầu tiên, sách cung cấp kiến thức cho con người. Đó là một điều mà không ai có thể phủ nhận. Bởi sách là nơi lưu trữ toàn bộ tri thức của nhân loại. Từ xưa đến nay, con người học tập đều cần có những cuốn sách hỗ trợ. Dù là bất kì lĩnh vực nào, chỉ cần đọc sách, con người sẽ tìm được đáp án mà mình muốn biết.

Tiếp đến, đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Khi đọc một cuốn sách hay, chúng ta sẽ có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Tất cả điều này sẽ giúp bạn trở thành một người thành công hay thất bại.

Sách còn có khả năng cảm hóa con người. Sách giúp chúng ta khơi dậy những tình cảm sống động: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Khi đọc tác phẩm “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, người đọc sẽ cảm nhận được nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như sự xót xa của tác giả trước cảnh ngộ của đất nước. Đọc truyện “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen, người đọc sẽ thương xót cho thân phận bất hạnh của cô bé bán diêm tội nghiệp, căm giận một xã hội vô cảm đã gián tiếp dẫn đến cái chết của cô bé. Từ đó, truyện khơi gợi trong lòng người đọc tấm lòng yêu thương, biết chia sẻ và đồng cảm.

Như vậy, “Sách là người bạn lớn của con người” là hoàn toàn đúng đắn. Hãy coi trọng những cuốn sách, bởi đó là “ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”.

Sách là người bạn đồng hành không thể thiếu của con người trong hành trình chinh phục tri thức và hoàn thiện bản thân. Có lẽ bởi vậy mà có ai đó đã từng khẳng định rằng “Sách là người bạn lớn của con người”.

Trước hết, “sách” là một dạng văn bản hay tài liệu ghi lại những tri thức, hiểu biết của con người về thế giới khách quan được ra đời từ rất sớm. Câu nói “Sách là người bạn lớn của con người” đã nêu cao và khẳng định vai trò của sách. Nó giống như người bạn đồng hành cùng với con người vượt qua mọi thử thách. Giá trị của một cuốn sách tốt cũng giống như một người bạn tốt. Nó có tầm vóc to lớn, giúp con người vươn tới thành công

Sách đã ghi lại những phát hiện, những hiểu biết và tri thức của con người về thế giới tự nhiên, xã hội. Thuở xưa, sách được tạo ra bằng cách chạm khắc lên mặt đá, lên thanh tre thanh trúc. Từ những nét chữ tượng hình giản đơn đến các loại ngôn ngữ có cấu tứ rõ ràng. Đến ngày hôm nay, sách đã được lưu giữ và phát triển qua một quá trình dài. Dù ngay cả trong chiến tranh xâm lược kéo dài từ thời phong kiến đến hiện đại, sách vẫn ở cạnh chúng ta. Các vị anh hùng chống giặc ngày xưa vận dụng kế sách, chiến thuật trong sách binh pháp cổ đại. Bác Hồ tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc cũng một phần nhờ vào sách ghi lại học thuyết của Mác – Lênin.

Và sách cũng là người bạn đồng hành với con người trong cả cuộc đời. Trong suốt quá trình học tập, sách là một phương tiện không thể thiếu đối với mỗi học sinh. Ngay cả khi không còn ngồi trên ghế nhà trường, những cuốn sách vẫn đem lại lợi ích cho chúng ta. Những cuốn sách dạy cho chúng ta về làm người, cách yêu thương và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Dù qua bao nhiêu năm tháng, dù ở bất cứ nơi đâu, bên cạnh chúng ta luôn có sự hiện diện của sách.

Không chỉ là người bạn bình thường, sách còn là người bạn lớn của con người. Bởi lẽ sách là kho tàng lưu giữ tinh hoa tri thức khổng lồ của nhân loại, được tích lũy qua hàng triệu năm. Từ những nhận thức đơn sơ thời cổ đại đến những thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại. Sách chứa đựng vô vàn điều mới lạ, kỳ diệu. Vô vàn thể loại, lĩnh vực khác nhau, mỗi cuốn sách lại đem đến cho chúng ta một chân trời mới. Sách địa lý giúp chúng ta vượt qua những rào cản không gian để đến được những vùng đất xa xôi, bí ẩn. Sách khoa học như chuyến tàu tốc hành đưa ta bay vào vũ trụ bao la, chạm đến những vì sao mà chỉ kính viễn vọng mới có thể nhìn thấy. Sách lịch sử lại như một cỗ máy thời gian đưa ta ngược về quá khứ để hiểu hơn những gì loài người đã trải qua, đưa ta đi đến tương lai với bao hy vọng, niềm tin và mơ ước. Sách văn học “gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”, dạy chúng ta biết yêu thương, đồng cảm với con người, biết trân trọng nâng niu cái đẹp, biết căm hờn cái xấu xa độc ác ở đời.

Đôi khi sách cũng không phải là một “người bạn tốt”. Cũng giống như bạn bè – có người tốt, người xấu. Những cuốn sách tốt sẽ giúp chúng ta mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn, sống nhân ái và biết vươn tới những giá trị tốt đẹp. Ngược lại, sách xấu là những cuốn sách có nội dung đồi trụy, đi ngược lại giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục, làm cho nhận thức của chúng ta lệch lạc, nhân cách suy thoái. Chính vì vậy cần biết cách lựa chọn sách để đọc, cũng giống như lựa chọn bạn để chơi.

Thực tế hiện nay, cuộc sống hiện đại, có quá nhiều thứ hấp dẫn, nhiều người đã dần lãng quên sách, nhất là các bạn trẻ. Họ có thể dành hàng giờ để đọc những cuốn truyện tranh vô bổ, nghịch điện thoại, chơi game nhưng không thể bỏ ra dù chỉ chút ít thời gian để đọc sách văn học, khoa học. Vốn hiểu biết của chúng ta thực chất chỉ nhỏ như giọt nước giữa đại dương tri thức mênh mông. Nếu không chú trọng bổ sung, sẽ có ngày giọt nước ấy bốc hơi theo năm tháng.

Mỗi người hãy ý thức tầm quan trọng của sách. Hãy trân trọng và nâng niu, phát huy giá trị của người bạn lớn – sách để hoàn thiện bản thân và vươn tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.

Cuộc sống của con người là một hành trình dài. Trên hành trình đó, chúng ta luôn cần những người bạn đồng hành. Sách chính là một trong những người bạn đó. Cũng giống như câu nói: “Sách là người bạn lớn của con người”.

Đầu tiên, sách trước hết là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong cuốn sách đó có chứa đựng những thông tin chính cần đề cập tới. Đó là những kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm, của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Sách được hình thành từ khi con người sáng tạo ra chữ viết, khi họ muốn lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống: khoa học, nghệ thuật, đời sống… Hiện nay, khi xã hội càng ngày càng phát triển thì càng có nhiều loại sách. Có thể kể đến tên một số loại sách như: sách khoa học, sách giáo khoa, sách giải trí… Mỗi loại sách khác nhau đều có những chức năng khác nhau. Còn “người bạn” dùng để chỉ những người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Và “người bạn lớn” sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của chúng ta. So sánh “sách” với “người bạn lớn”, câu nói trên muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sách đối với con người. Cũng giống như câu nói: “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được lựa chọn; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”.

Sách giống như một người bạn lớn, bời vì nhờ có những cuốn sách đã cung cấp cho con người một nguồn tri thức vô giá nhân loại. Không chỉ là những tri thức của hiện tại mà còn là những nghiên cứu, những tinh hoa mà phải trải qua một quá trình dài mới có thể đúc kết ra được. Qua những trang sách, chúng ta có thể tìm về với quá khứ, bước đến tương lai hoặc có thể phiêu lưu khắp mọi nơi trên thế giới. Harvey MacKay nói rằng: “Cuộc đời ta thay đổi theo hai cách: qua những người ta gặp và qua những cuốn sách ta đọc”. Khi đọc được một cuốn sách hay, bạn đã tích lũy cho mình một nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Bạn cũng sẽ khám phá ra nhiều điều mới lạ mà trước đây bạn chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Đồng thời, có những cuốn sách còn giúp con người có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Điều đó sẽ giúp bạn đạt được thành công mà mình mong muốn.

Mỗi cuốn sách sẽ có ảnh hưởng nhất định đến con người. Những tác phẩm văn chương giàu giá trị giúp khơi dậy cho chúng ta biết xúc động, biết đồng cảm và chia sẻ. Các sáng tác của nhà văn Thạch Lam như Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê… đã khắc họa cuộc sống của những kiếp người nhỏ bé trong xã hội. Những tác phẩm này đã khơi dậy trong lòng người đọc lòng thương cảm, sự sẻ chia với những con người đó.

Nhưng bên cạnh những cuốn sách tốt – giống như một người bạn tốt, còn có những cuốn sách xấu – sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến con người. Chính vì vậy, chúng ta cần phải biết lựa chọn sách để đọc.

Như vậy, câu nói “Sách là người bạn lớn của con người” là hoàn toàn đúng đắn. Mỗi người hãy biết lựa chọn sách, quý trọng sách giống như đối với một người bạn của mình vậy.

Từ xưa đến nay, sách có một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của nhân loại. Chính bởi vậy mà có câu nói: “Sách là người bạn lớn của con người” đã khẳng định được tầm quan trọng của sách.

Hiểu một cách đơn giản, sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển, trong cuốn sách đó có chứa đựng những thông tin chính cần đề cập tới, đó là những kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm, của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Bạn bè là những người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Những người “bạn lớn”sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của chúng ta. Khi so sánh “sách” với “người bạn lớn” đã cho thấy được vai trò của sách trong cuộc sống của mỗi người.

Sách cung cấp cho con người những tri thức khác nhau thuộc mọi lĩnh vực trong đời sống. Sách có thể giúp người đọc vượt qua mọi không gian và thời gian, thậm chí là mọi ngôn ngữ. Khi đọc sách, chúng ta giống như đang được “xuyên không” từ quá khứ đến hiện tại và ngay cả tương lai nữa. Lạc vào thế giới của sách, con người sẽ đến với những chuyến hành trình bất tận, khám phá được nhiều điều mới mẻ và thú vị mà chỉ phải bỏ ra một số tiền rất nhỏ.

Sách là người bạn lớn bởi nếu chúng ta đọc được một quyển sách tốt, bạn không chỉ học hỏi được những kiến thức mà còn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng không phải cuốn sách nào cũng đem đến những giá trị tốt đẹp. Những cuốn sách vô bổ sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm hồn người đọc. Không chỉ vậy, sách còn là nơi giúp con người giải trí sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng và mệt mỏi.

Advertisement

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Trong suốt ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, nhờ có sách mà Người đã có thêm nhiều hiểu biết về những nước đã đi qua. Người còn tìm đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng qua những trang sách. Đó cũng là vũ khí đắc lực để người truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản về nước, cổ vũ nhân dân chống lại kẻ thù…

Tóm lại, sách có một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của con người. Hãy yêu sách vì nó sẽ mở ra trước mắt bạn những chân trời mới tuyệt đẹp.

Có ai đó đã từng nói rằng: “Sách là người bạn lớn của con người”. Điều đó đã giúp cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của sách trong cuộc sống.

Đầu tiên, sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong sách chứa đựng một khối lượng thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm, của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như khoa học, âm nhạc, văn học… Sách cũng giống như bạn bè vậy, có ảnh hưởng đến con người. Một cuốn sách hay có thể dạy cho chúng ta những bài học bổ ích. Sách giúp chúng ta thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Có đôi khi, sách còn chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn với con người.

Mọi tri thức của nhân loại đều được lưu giữ trong kho tàng vô tận – sách. Một nhà văn đã từng khẳng định rằng “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”. Bởi vậy mà khi đọc sách, con người có thể mở mang kiến thức. Cũng giống như đang trò chuyện với một người bạn hiểu biết, thì cũng học hỏi được nhiều điều. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Cùng với mặt tích cực, thì còn có mặt tiêu cực. Cuốn sách chứa đựng những nội dung xấu, cũng giống như người bạn xấu, sẽ gây ra ảnh hưởng không tốt đến chúng ta.

Qua những trang sách, chúng ta có thể tìm về với quá khứ, bước đến tương lai hoặc có thể phiêu lưu khắp mọi nơi trên thế giới. Harvey MacKay nói rằng: “Cuộc đời ta thay đổi theo hai cách: qua những người ta gặp và qua những cuốn sách ta đọc”. Khi bạn đọc một cuốn sách có nghĩa là đã tự cung cấp cho mình một nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Bạn cũng sẽ khám phá ra nhiều điều mới lạ mà trước đây bạn chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Đồng thời, có những cuốn sách còn giúp con người có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Chẳng phải đây chính là những điều một người bạn tốt có thể làm được?

Có thể khẳng định rằng, việc so sánh sách giống như một người bạn lớn là hoàn toàn đúng đắn. Sách quan trọng, bởi vậy cần có phương pháp đọc sách thật đúng đắn để phát huy hết vai trò của nó.

Có người đã từng khẳng định rằng: “Sách là người bạn lớn của con người” gợi cho chúng ta suy nghĩ về vai trò của những cuốn sách.

Có thể hiểu đơn giản, sách là một sản phẩm do con người sáng tạo ra dùng để lưu trữ khối lượng kiến thức khổng lồ của nhân loại. Còn bạn bè là những người có chung sở thích, lí tưởng, mục tiêu… và có tầm ảnh hưởng to lớn đến mỗi người. Cách so sánh “Sách là người bạn lớn của con người” cho thấy được tầm vai trò của sách với con người, cũng giống như vai trò của những người bạn vậy.

Một người bạn tốt sẽ giúp chúng ta học hỏi được nhiều điều bổ ích. Nguồn tri thức của nhân loại đã được gìn giữ, lưu truyền nhớ có sách. Khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ biết thêm nhiều kiến thức mới mẻ, khám phá ra nhiều điều thú vị trong cuộc sống. Một cuốn sách giúp bạn có thêm nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác.

Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn đã phải trải qua. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn.

Đồng thời, bạn có thể khám phá ra nhiều điều chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Qua những trang sách, chúng ta có thêm được niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi nghịch cảnh, khó khăn trong cuộc sống.

Hiểu được điều đó, chúng ta cần biết trân trọng những cuốn sách. Đồng thời, cần lựa chọn sách sao cho phù hợp với mục đích của bản thân, cũng như có được phương pháp đọc sách đúng đắn. Cũng nên tránh xa những cuốn sách có nội dung tiêu cực. Có như vậy, sách mới trở thành “người bạn lớn” của con người.

“Sách không chỉ là sách, chúng là cuộc sống, là trái tim và hạt nhân của những thời đại đã qua, là lý do mà con người lao động và chết, là cốt lõi và tinh hoa của bao cuộc đời” (Marcus Tullius Cicero – một nhà lý luận chính trị La Mã). Hãy yêu sách, trân trọng sách như yêu và trân trọng người bạn của mình.

Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Nói Sách Là Ngọn Đèn Sáng Bất Diệt Của Trí Tuệ Con Người 2 Dàn Ý & 16 Bài Văn Mẫu Lớp 7

Giải thích câu Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người

Tài liệu bao gồm 2 dàn ý và 16 bài văn mẫu lớp 7 cùng các mẫu mở bài gián tiếp, kết bài gián tiếp. Các bạn học sinh có thể tham khảo để có thêm ý tưởng cho bài viết.

Giải thích Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người

Dàn ý Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người

Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người ngắn nhất (2 mẫu)

Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người (5 mẫu)

Giải thích Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người (6 mẫu)

Dàn ý Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người

1. Mở bài

Dẫn dắt, giới thiệu câu nói: Những cuốn sách đem đến cho con người nhiều lợi ích. Bởi vậy mà có ý kiến khẳng định rằng: “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người” đã để lại cho chúng ta nhiều suy tư, bài học sâu sắc.

2. Thân bài

a. Giải thích

– “Sách” là một sản phẩm do con người sáng tạo ra, dùng để ghi chép và lưu trữ tri thức của nhân loại.

– “ngọn đèn” là một đồ vật được sử dụng rất phổ biến, với công dụng là chiếu sáng.

– Hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” thể hiện sự tồn tại của ánh sáng, mãi mãi không mất đi.

– Sách cung cấp những nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy mới. Con người có thể học được nhiều kiến thức bổ ích từ sách mà không phân bị rào cản bởi không gian, thời gian hay ngôn ngữ.

– Sách giống như một người bạn: giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người, chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống; giúp con người nhận ra những phần khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn.

c. Mở rộng vấn đề

– Không phải sách nào cũng có nội dung hữu ích, tích cực; cần tránh xa những cuốn sách có nội dung xấu.

– Phương pháp đọc sách đúng đắn, chú trọng đến chất lượng chứ không phải số lượng.

3. Kết bài

Khẳng định lại ý nghĩa của câu nói: Câu nói “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người” thật giàu giá trị. Mỗi trang sách hay đều để lại ý nghĩa. Và chúng ta cần trân trọng và giữ gìn sách như chính người bạn của mình.

Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người ngắn nhất Đoạn văn mẫu số 1

Lời khẳng định “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người” mang đến ý nghĩa sâu sắc. Đầu tiên, sách là một dạng văn bản, những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu và kinh nghiệm của người viết. Còn “ngọn đèn” là một đồ vật do con người phát minh ra để chiếu sáng. Hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” cho thấy ánh sáng của nó luôn sẽ tồn tại với thời gian, không mất đi. Việc so sánh “sách” với hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” nhằm khẳng định giá trị của sách đã cung cấp kiến thức cho con người. Sách cung cấp cho con người những tri thức khác nhau thuộc mọi lĩnh vực trong đời sống. Từ đó, con người có thêm những kiến thức, cách tư duy mới mẻ. Những quyển sách giống như một người của con người. Khi đọc được một quyển sách tốt, bạn không chỉ học hỏi được những kiến thức mà còn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Như vậy, câu nói “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người” là hoàn toàn đúng.

Đoạn văn mẫu số 2

“Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người” – lời khẳng định cho thấy tầm quan trọng của sách. Sách là một sản phẩm của con người, dùng để lưu trữ khối lượng kiến thức khổng lồ của nhân loại. Còn “ngọn đèn” là một đồ vật dùng để chiếu sáng. Hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” thể hiện sự tồn tại lâu dài của ánh sáng với thời gian, không bị mất đi. Như vậy, cách so sánh “sách” với hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” nhằm khẳng định giá sách cũng giống như ngọn đèn soi sáng tri thức cho con người, vượt qua mọi giới hạn về thời gian, tồn tại vĩnh cửu. Nguồn tri thức của nhân loại đã được gìn giữ, lưu truyền nhớ có sách. Khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ học hỏi thêm nhiều kiến thức mới mẻ, vượt qua mọi không gian và thời gian. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Một cuốn sách giúp bạn có thêm nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Đồng thời, bạn có thể khám phá ra nhiều điều chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Chúng ta không thể thể phủ nhận vai trò của sách, nên mỗi người cần phải tích cực đọc sách, cũng như có phương pháp đọc sách đúng đắn cho mình. Tóm lại, lời khẳng định “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người” là vô cùng đúng đắn.

Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người Bài văn mẫu số 1

Những cuốn sách đem đến cho con người nhiều lợi ích. Bởi vậy mà có ý kiến khẳng định rằng: “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người” đã để lại cho chúng ta nhiều suy tư, bài học sâu sắc.

Có rất nhiều khái niệm về sách. Nhưng hiểu đơn giản, “sách” là một sản phẩm do con người sáng tạo ra, dùng để ghi chép và lưu trữ tri thức của nhân loại. Còn “ngọn đèn” là một đồ vật được sử dụng rất phổ biến, với công dụng là chiếu sáng. Hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” thể hiện sự tồn tại của ánh sáng, mãi mãi không mất đi. Như vậy, cách so sánh “sách” với hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” nhằm khẳng định giá sách cũng giống như ngọn đèn soi sáng tri thức cho con người, vượt qua mọi giới hạn về thời gian và tồn tại vĩnh cửu.

Trải qua những hàng triệu năm hình thành và phát triển, con người đã tìm tòi và khám phá ra một khối lượng kiến thức khổng lồ. Việc ghi nhớ chúng là không thể, nên sách ra đời Toàn bộ tri thức từ xa xưa đến hiện tại có lẽ đều được ghi lại trong những cuốn sách.

Bởi lẽ đó, khi đọc sách, con người sẽ học hỏi thêm nhiều kiến thức mới mẻ, bổ ích. Cuốn sách hay sẽ giúp bạn có thêm nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy mới. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Sách còn giúp con người nhận ra những phần khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Bởi vậy mà hoàn toàn đúng đắn khi nói rằng sách là “ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”.

Ngược lại, chúng ta cần tránh xa những cuốn sách có nội dung xấu. Và cần có một phương pháp đọc sách đúng đắn, chú trọng đến chất lượng chứ không phải số lượng. Đối với một học sinh như tôi, việc đọc sách là vô cùng cần thiết, để nâng cao kiến thức và kĩ năng cho bản thân.

Lời khẳng định “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người” thật giàu giá trị. Mỗi trang sách hay đều để lại ý nghĩa. Và chúng ta cần trân trọng và giữ gìn sách như chính người bạn của mình.

Bài văn mẫu số 2

Con người đã sáng tạo ra sách để lưu giữ lại nguồn tri thức quý giá. Bởi vậy có thể khẳng định rằng: “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người”.

Trước hết, “sách” là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong sách chứa đựng những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu và kinh nghiệm của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Còn với “ngọn đèn” là vật dụng do con người phát minh ra dùng để chiếu sáng. Hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” thể hiện sự tồn tại lâu dài của ánh sáng với thời gian, không bị mất đi. Như vậy, cách so sánh “sách” với hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” nhằm khẳng định giá sách cũng giống như ngọn đèn soi sáng tri thức cho con người, vượt qua mọi giới hạn về thời gian, tồn tại vĩnh cửu.

Nguồn tri thức của nhân loại đã được gìn giữ, lưu truyền nhớ có sách. Khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ học hỏi thêm nhiều kiến thức mới mẻ, vượt qua mọi không gian và thời gian. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn.

Một cuốn sách giúp bạn có thêm nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Đồng thời, bạn có thể khám phá ra nhiều điều chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Đồng thời, có những cuốn sách còn giúp con người có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống.

Sách giúp soi sáng trí tuệ con người, chỉ dẫn chúng ta đến với con đường đúng đắn. Không thể phủ nhận vai trò của sách, nên mỗi người cần phải tích cực đọc sách, cũng như có phương pháp đọc sách đúng đắn cho mình.

Tóm lại, lời khẳng định “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người” là vô cùng đúng đắn. Hãy trân trọng và bảo vệ cuốn sách, bởi chúng là kho tàng quý giá của nhân loại.

Bài văn mẫu số 3

Có ý kiến cho rằng: “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người”. Lời khẳng định làm sáng tỏ tầm quan trọng của sách trong cuộc sống của nhân loại, để từ đó mỗi người có thái độ đúng đắn hơn.

Về khái niệm sách, hiểu đơn giản là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong sách chứa đựng những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu và kinh nghiệm của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Còn “ngọn đèn” là một đồ dùng được con người phát minh ra có công dụng là chiếu sáng. Có nghĩa là “ngọn đèn bất diệt” sẽ đem lại ánh sáng mãi mãi, không thay đổi hay mất đi. Cách so sánh “sách” với hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” nhằm khẳng định giá trị to lớn của sách cũng giống như ngọn đèn, tồn tại mãi mãi với thời gian và thắp sáng cho trí tuệ của con người.

Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Đồng thời, có những cuốn sách còn giúp con người có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Sách giúp con người tu dưỡng tinh thần để trở nên tốt đẹp hơn. Những cuốn sách kinh điển của thời đại như Những người khốn khổ, Tấn trò đời đã giúp con người hiểu hơn về những bất công trong cuộc sống của con người, khơi gợi tình yêu thương, đồng cảm. Những cuốn sách kĩ năng sống như Đắc nhân tâm, Hạt giống tâm hồn… sẽ giúp con người biết cách ứng xử, giao tiếp trong, chia sẻ trong cuộc sống.

Sách chính là sản phẩm trí tuệ của con người, được tạo ra giúp lưu trữ trí tuệ của con người. Nó sẽ được lưu truyền qua năm tháng, tồn tại bất diệt. Bởi vậy, chúng ta cần biết trân trọng, bảo vệ và có phương pháp đọc sách đúng đắn.

Bài văn mẫu số 4

Sách có một tầm quan trọng vô cùng to lớn trong cuộc sống. Chính bởi vậy mà lời khẳng định “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người” là vô cùng đúng đắn.

Có rất nhiều khái niệm về “sách”, nhưng hiểu đơn giản nhất “sách” là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong sách chứa đựng những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu và kinh nghiệm của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Tiếp đến, “ngọn đèn” là vật dụng do con người phát minh ra dùng để chiếu sáng. Như vậy, “ngọn đèn bất diệt” thì ánh sáng của nó luôn sẽ tồn tại với thời gian, không bị mất đi. Cách so sánh “sách” với hình ảnh “ngọn đèn bất diệt” nhằm khẳng định giá trị của sách, giống như ngọn đèn soi sáng tri thức cho con người.

Sách lưu giữ những tri thức được đúc kết từ trong cuộc sống trên mọi lĩnh vực. Khi đọc một cuốn sách, cũng giống như đang trò chuyện với một người hiểu biết, chúng ta sẽ học hỏi được nhiều kiến thức bổ ích. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Những cuốn sách giúp chúng ta nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn.

Nhiều cuốn sách còn trở thành tác phẩm bất hủ của thời đại bởi nó chứa đựng những giá trị tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm về con người và thời đại khi đó. Chắc hẳn không có ai mà không biết đến bộ “Tấn trò đời” của nhà văn Balzac đã khắc họa hiện thực xã hội nước Pháp nửa đầu thế kỷ XIX một cách chân thực và sống động. Có người đã nhận xét về cuốn sách là “một trong những công trình bát ngát mênh mông nhất mà một con người dám đơn độc cấu tứ”. Đôi khi sách còn trở thành thứ vũ khí đắc lực phục vụ cho công cuộc giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Người có nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Con rồng tre, Vi hành, Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách Mệnh, Tuyên ngôn độc lập… đã trở thành vũ khí đắc lực cho cách mạng.

Từ đó, chúng ta cần phải có được cách đọc sách đúng đắn. Xã hội vừa phát triển, thì càng số lượng sách ngày càng nhiều. Mà quỹ thời gian của mỗi người thì quá ngắn ngủi để có thể đọc hết toàn bộ được số sách khổng lồ đó. Những kiến thức mà chúng ta học được giống như một giọt nước giữa đại dương vô tận. Vậy nên, khi đọc sách, chúng ta không nên quá quan trọng việc mình đã đọc được bao nhiêu cuốn sách. Mà cần phải lựa chọn trên mục đích đọc, tìm kiếm những cuốn phù hợp với mình. Khi đọc sách, cần phải tự mình phải tư duy, suy nghĩ về các vấn đề, rồi phải hành động ngay sau mỗi bài học rút ra. Tránh đọc nhanh, đọc lướt mà không hiểu rõ được vấn đề.

Tóm lại, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò của sách. Bởi vậy, mỗi người hãy trân trọng, và có được cách đọc sách đúng đắn.

Bài văn mẫu số 5

Từ xưa đến nay sách được xem là kho báu kiến thức bất tận của nhân loại, đóng góp vào sự phát triển về nhận thức và nhân cách của con người. Khi bàn về vai trò của sách có ý kiến cho rằng: “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người”.

Không phải vô cớ người ta đã có nhận định rất sâu sắc về vai trò và ý nghĩa của sách như vậy. Điều này đều xuất phát từ giá trị mà sách mang đến cho con người trong rất nhiều thế kỉ qua. Sách có từ đâu, có từ bao giờ có rất nhiều tài liệu bàn luận về vấn đề này. Và vai trò, tác dụng của sách cũng không thể diễn tả trong một vài câu.

Từ xưa đến nay, tri thức của nhân loại đều được lưu giữ và phát triển qua từng trang sách. Kiến thức có thể không thay đổi, nhưng sẽ phát triển cùng với xu hướng của thời đại để đáp ứng được nhu cầu của con người. Những giá trị mà sách mang lại đều khiến cho con người mở mang được kiến thức, hiểu biết về thế giới, về nhân loại. Tại sao mọi người lại gọi “Sách là ngọn đèn trí tuệ bất diệt của con người”. Vốn dĩ mọi thứ mà con người biết, học hỏi lẫn nhau không phải không có nguồn gốc. “Ngọn đèn” vẫn được hiểu là vật dụng để phát ra ánh sáng, dẫn lối cho con người đi trong đêm. Đó là thứ ánh sáng cần thiết và giúp ích rất lớn. Và sách cũng vậy, sách mở ra một chân trời tri thức, giúp con người có thể hiểu thêm về xã hội, hiểu nhiều kiến thức về mọi lĩnh vực: văn học, hóa học, toán học, lịch sử… Mỗi chuyên ngành đều có những loại sách riêng, nó sẽ đáp ứng được những nhu cầu cần thiết của từng người.

Kiến thức là vô tận, nhưng trí tuệ của con người thì có hạn. Bởi vậy để có thể làm cho trí tuệ ấy thêm phong phú hơn, thêm dồi dào hơn thì ngọn đèn trí tuệ từ sách sẽ khiến cho con người nhìn nhận vấn đề một cách rộng hơn, bao quát hơn. Đây là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta. Ngọn đèn soi đường luôn sáng, trí thức trong sách cũng vậy. Trí thức ngày càng được mở rộng, đa dạng, phong phú hơn. Vì thế trí tuệ của con người cũng ngày càng có nhiều hiểu biết hơn. Đây chính là sự tác động qua lại giữa sách và trí tuệ của con người.

Hiện nay có rất nhiều dòng sách, sẽ đáp ứng được nhu cầu của từng người. Đối với những người nông dân chỉ biết trồng lúa thì những cuốn sách về nông nghiệp giới thiệu kỹ thuật trồng, giới thiệu phương pháp phòng trừ sâu bệnh là điều cần thiết đối với họ. Ngược lại đối với trẻ con thì những cuốn sách giới thiệu khái quát nhất về cuộc sống xung quanh, dạy các em học tập, trao đổi kiến thức là điều mà các em cần. Như vậy ở mỗi giai đoạn, mỗi người thì việc tìm sách để đọc cũng như tìm kiến thức để hiểu là việc vô cùng cần thiết.

Chọn sách để đọc cũng như chọn bạn mà chơi vốn dĩ là điều mà rất nhiều người đã biết. Trí tuệ của con người được tích lũy qua những trang sách và ngày càng phát triển theo những cuốn sách đó. Vậy mỗi chúng ta cần biết được mình cần gì, có thể học được gì từ sách thì hãy tìm cuốn sách đó để học. Không những bạn có thêm kiến thức mà còn giúp cho tinh thần bạn được thư giãn, thoải mái hơn. Quả vậy, “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người”.

Giải thích Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người Bài văn mẫu số 1

Đã từ lâu, sách đã kết tinh trí tuệ của con người, sách là nguồn của cải vô giá của nhân loại. Nhận định về giá trị của sách, một nhà văn có nói: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”.

Đúng vậy, sách chứa đựng trí tuệ của con người nghĩa là chứa đựng những tinh hoa của sự hiểu biết. Ngọn đèn sáng, đối lập với bóng tối. Ngọn đèn ấy rọi chiếu, soi đường đưa con người ra khỏi chỗ tối tăm. Sách là ngọn đèn sáng bất diệt cũng là ngọn đèn sáng không bao giờ tắt, càng lúc càng rực rỡ bởi sự tiếp nối trí tuệ của nhân loại, soi đường giúp cho con người thoát khỏi chốn tối tăm của sự hiểu biết. Nghĩa là, sách là nguồn sáng bất diệt được thắp lên từ chính trí tuệ con người.

Không phải mọi cuốn sách đều là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người. Nhưng đa phần sách đều có giá trị thì đúng là như thế. Bởi vì, những cuốn sách có giá trị ghi lại những điều hiểu biết quý giá nhất mà con người thâu tóm được trong lao động sản xuất, trong chiến đấu và trong các mối quan hệ xã hội. Những hiểu biết được sách ghi lại không chỉ có ích trong một thời gian nhất định mà còn có ích cho mọi thời đại. Mặt khác, nhờ có sách, ánh sáng trí tuệ ấy được truyền lại cho các đời sau. Vì thế, sách thực sự là một ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người. Đó là điều mà đã được mọi người ở nhiều thời đại thừa nhận. Nhà văn M. Gorki đã viết: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”. Hay “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền” – La Roche fou.

Khi hiểu được giá trị của sách, chúng ta cần vận dụng chân lý ấy như thế nào trong cuộc sống. Chúng ta cần phải chăm đọc sách để hiểu biết nhiều hơn, sống tốt hơn. Cần phải chọn sách tốt, sách hay để đọc, không được chọn sách có hại để đọc. Cần tiếp nhận những điều hay chứa đựng trong sách, cố hiểu nội dung trong sách và làm theo sách.

Câu nói đó vẫn còn nguyên giá trị đối với mọi thời đại. Sách sẽ mãi mãi là người bạn cần thiết cho chúng ta. Chúng ta phải biết yêu mến sách, biết giữ gìn sách thật tốt.

Bài văn mẫu số 2

Đời sống ngày một nâng cao, yêu cầu về học thức của mỗi con người ngày càng cần thiết. Phương tiện để học hữu hiệu, đạt kết quả tốt nhất đó chính là sách. Sách đối với trí tuệ con người là quan trọng. Nó tu dưỡng nhân cách, ý thức của mỗi chúng ta. Chính vì vậy mới có câu rằng: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”.

Sách không chỉ là vật dụng mà nó còn chứa đựng những tư tưởng nhân văn, ý nghĩa sâu xa khiến người ta phải ngẫm nghĩ. Không chỉ vậy sách còn là món ăn tinh thần trong cuộc sống, tô điểm chút thi vị cho đời thường. Thế giới trong sách không đơn thuần khi ta mới nhìn qua mà đọc từng câu từng từ, xem từng hình ảnh mới cảm nhận được nét tinh hoa, sự giàu đẹp của nó. Đồng thời nó cũng là chiếc chìa khoá trước hết là mở ra cánh cổng tri thức và sau đó là mở ra cánh cổng của thành công, thăng hoa. Có thể nói tuy chỉ là một vật dụng nhỏ bé do con người tạo ra, về giá trị vật chất có thể không có mấy nhưng về giá trị tinh thần thì rất lớn. Sách là một kho tàng về tri thức. Trải qua hàng trăm năm con người đã biết ghi chép lại những tri thức. Nó thể hiện những sự kiện lịch sử quan trọng, những vùng miền đất mới, những công trình kiến trúc khoa học, văn hoá nghệ thuật, hay những phát minh khoa học, những công thức toán học. Đã từ lâu sách đã đi vào cuộc sống của mỗi con người, khuyên răn, chỉ bảo con người thêm hiểu biết và như người bạn thân song hành. Khi chưa biết, sách là người thầy của chúng ta, khi căng thẳng, sách là nguồn động viên an ủi giúp ta tiến bước. Khi buồn bã, giận hờn thì sách là liều thuốc xoa dịu vết thương. Sách gợi lại cho chúng ta những kỉ niệm đáng nhớ, liên tưởng cho chúng ta về một thế giới tưởng chừng vô hình trừu tượng mà lại hiển hiện trong cuộc sống. Sách còn là nguồn thông tin, trao đổi kiến thức, giao lưu giữa hàng nghìn vùng miền xa lạ, kho tàng kiến thức cho nhân loại. Có thể chứng minh rằng ý nghĩa to lớn của sách dành cho chúng ta là rất lớn. Nó tái hiện lại trạng thái, sự sống, hoạt động của con người. Nó chỉ ra một tương lai mới, hay quay về quá khứ để lấy lại những kinh nghiệm. Những trang sách thuần tuý ấy đã đi vào trong cả nền giáo dục mỗi con người. Sách không chỉ là hành trang của con người trong trường học, mà còn là hành trang của con người trong đời thường, cuộc sống, xã hội. Sách mở rộng tầm nhìn cho chúng ta về cuộc đời, chỉ bảo, thâm nhập vào tâm hồn của cuộc sống. Thế giới có sách vở là thế giới giàu tri thức, nhiều công nghệ. Thế giới không có sách là thế giới nghèo nàn lạc hậu. Những cuốn sách đã dạy chúng ta biết bao điều kì diệu trong cuộc sống, tu dưỡng đạo đức cho ta ngày một văn minh.

Tất cả những điều trên đều chứng tỏ một chân lý rằng: “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ loài người”. Ấy vậy mà một số hành vi lại xâm phạm đến ý nghĩa cao đẹp của sách. Những cuốn sách không phù hợp tính nhân văn vẫn được bày bán công khai. Những nội dung ngang trái khiến người đọc phải bất mãn vẫn được tung ra thị trường. Giá trị cao quý của sách đã bị xoá mờ đi bởi những bàn tay vô trách nhiệm. Việc đọc sách để mở mang tầm hiểu biết những việc chọn sách lại là nền tảng cho mục đích ấy. Một cuốn sách hay sẽ đem lại cho con người một tư tưởng, một định hướng có lợi nhất định. Những một cuốn sách xấu lại mang lại cho con người tư tưởng lệch lạc, thiếu chín chắn dẫn đến những hậu quả khó lường. Do đó chúng ta cũng thấy được cái tốt từ sách để học tập. Nhắc đến sách là nhắc tới một thế giới sáng trong, một thế giới mang tính nhân văn, hiện thực. Do đó ta phải nhận ra được rằng: “Đọc sách không chỉ là tu dưỡng kiến thức mà còn là mở ra một con đường, một lối mở dẫn đến thành đạt”. Một trong những thiệt thòi lớn nhất của con người là không đọc sách vì đó như một thế giới thông tin thu nhỏ dễ hiểu, dễ cảm nhận. Ngay cả những vị danh nhân thành tài, những nhà bác học uyên bác không thể phủ nhận được giá trị của sách. Tri thức của con người càng được tu dưỡng bao nhiêu thì con người lại càng cảm nhận được vai trò của sách, hiểu thêm được tác dụng mà sách đem lại.

Có thể nói sách chính là phương tiện để chúng ta học tập, là nguồn động lực để chúng ta vươn xa. Do đó chúng ta trước hết phải hiểu được vai trò, giá trị của nó, biết chọn lựa, sau đó là hãy biết sử dụng nó đúng mục đích để sách luôn luôn mang một vị trí quan trọng trong đời sống mỗi con người hay nói rõ hơn là “ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ loài người”.

Bài văn mẫu số 3

Khi cuộc sống phát triển thì đòi hỏi con người phải luôn cập nhật, tiếp thu những kiến thức mới. Và sách chính là công cụ hữu hiệu giúp cho con người học tập có hiệu quả. Vì vậy, có câu nói rằng: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”.

Trước hết cần phải khẳng định đây là một câu nói đúng, nó đã cho thấy vai trò của sách trong đời sống con người. Sách chính là chìa khóa mở ra kho tàng tri thức của nhân loại. Sách chứa đựng những thông tin về lịch sử, địa lý, xã hội,… Sách chứa đựng những tư tưởng sâu xa, những triết lý về nhân sinh cuộc đời khiến chúng ta phải suy ngẫm. Sách là người thầy cung cấp cho chúng ta những điều mới lạ, khuyên răn, chỉ bảo những điều hay lẽ phải. Đồng thời sách cũng giống như một người bạn hiền luôn bên cạnh mỗi lúc ta gặp khó khăn trong cuộc sống. Những lúc buồn chán, sách lại giống như viên thuốc xoa dịu những vết thương lòng. Trong những khoảng thời gian rảnh rỗi, đọc sách là một cách để giải trí đầu óc, thư thái tâm hồn. Đọc sách là một thói quen tốt và lành mạnh. Sách đã đem đến cho chúng ta một chân trời mới, khiến cho cuộc sống thêm thú vị hơn.

Tuy nhiên bên cạnh đó, nhiều người lại sử dụng sách một cách sai trái. Những cuốn sách không được kiểm duyệt, mang nội dung tư tưởng lệch lạc được bày bán trên thị trường khiến nhiều người mua nhầm, hiểu sai giá trị thật. Do vậy, chúng ta cũng cần đọc sách một cách có chọn lọc. Những cuốn sách hay, có giá trị luôn mở ra con đường dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Sách là nguồn trí thức vô tận để ta học tập và vươn xa hơn. Tuy nhiên, bản thân chúng ta cần phải biết chọn lựa và sử dụng sách một cách hợp lý để sách đem lại giá trị cho người đọc.

Bài văn mẫu số 4

“Đọc sách hay cũng giống như trò chuyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.”(Rene Descartes). Nguồn tri thức mà sách đem lại cho con người là những giá trị không thể phủ nhận từ xưa tới nay. Và như một nhà văn đã từng nói: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của tri thức”.

“Sách” là một trong những điều đã rất quen thuộc với chúng ta. Đó được coi là nơi ghi chép lại và lưu giữ tri thức để truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ở sách dường như ta tìm kiếm được mọi tri thức ở mọi lĩnh vực khác nhau ở mọi thời đại và vùng miền khác nhau. “Ngọn đèn” là biểu tượng cho ánh sáng và chỉ có ánh sáng mới là vị cứu tinh cho vạn vật trong bóng tối, đem con người tiến dần đến văn minh. “Ngọn đèn bất diệt” không chỉ là nguồn ánh sáng dẫn đường chỉ lối cho con người, giải thoát con người khỏi sự tối tăm mà là nguồn ánh sáng vĩ đại không bao giờ tắt, nguồn ánh sáng mạnh mẽ vĩnh hằng. Nói “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của tri thức” là đã khẳng định vai trò của sách trong việc lưu giữ, truyền đạt tri thức và có giá trị đưa con người lên những tầm cao mới với một sự sống vĩnh hằng.

Vì sao lại nói “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của tri thức”? Đầu tiên, như chúng ta đã biết, sách là nơi để lưu giữ tri thức của nhân loại từ ngàn đời nay. Tất cả những kiến thức về văn hóa, lịch sử, chính trị… từ trước đến nay đều được lưu giữ trong những cuốn sách. Những sự kiện, tri thức có từ nhiều thế kỉ trước còn được lưu truyền đến ngày nay phần lớn là do được giữ lại trong những cuốn sách hay những dụng cụ thay thế cho sách khi con người chưa phát minh ra giấy viết như thẻ tre, trên đá. Có sách, những kiến thức ấy sẽ không bao giờ rơi vào quên lãng hay thất truyền.

Sách còn là một thế giới tri thức không giới hạn về không gian hay thời gian. Ta vẫn luôn có thể tìm thấy những người bạn tri âm cách ta cả thế kỷ qua những trang sách, đó có thể là nhân vật trong sách hay chính người sáng tạo. Ta được nói chuyện, học hỏi ở họ những vốn sống cần thiết mà bản thân không nhất thiết phải tự mình kinh qua trải nghiệm để đúc kết. Thêm vào đó ta có thể đặt chân tới trăm ngàn vùng đất xa xôi khác nhau mà chưa cần phải bước chân ra khỏi nhà.

Sách là nguồn tri thức vô tận mà con người dành cả đời mình để tìm hiểu và khai phá cũng chưa thể khai phá hết. Qua thời gian, những giá trị tri thức mà sách đem lại ngày càng to lớn và là một người tri thức khổng lồ đòi hỏi con người khả năng khám phá. Có nguồn tri thức rộng lớn ấy, con người ngày càng văn minh hơn, giá trị hơn và thoát khỏi mọi khổ đau do bóng tối gây nên. Và đặc biệt hơn cả, ngọn nguồn ánh sáng tri thức ấy không bao giờ nguội tắt khi con người ta ý thức được giá trị của tri thức và cái đẹp.

Câu nói đã khẳng định vai trò và giá trị vĩnh hằng của sách trong việc lưu giữ và truyền tải tri thức. Tuy nhiên, để sách là ngọn đèn sáng soi đường chỉ lối cho mỗi chúng ta thì cần có ý thức đọc sách, trân trọng sách đồng thời biết chọn sách để đọc. Khi đọc thì cần tích hợp suy nghĩ, lí giải, tìm tòi khám phá, đọc một phải biết mười, thậm chí in lại dấu ấn cuốn sách đã đọc trong tiềm thức để biến kiến thức đã đọc được thành của mình, không phụ thuộc vào những trang giấy. Ngày nay, thời đại có nhiều đổi khác, internet phát triển nhưng vẫn không thể phủ nhận giá trị to lớn của sách.

Mỗi cuốn sách là sự kết tinh tinh hoa văn hóa nhân loại từ ngàn đời, của những thế hệ đi trước, đó là nguồn sáng vô tận của tri thức sẽ đưa nhân loại ngày càng phát triển. Và đọc sách chính là cách ta đáp lại lời truyền giáo của tổ tiên, nối tiếp hành trình thắp sáng tri thức nhân loại.

Bài văn mẫu số 5

M.Gorki từng nói: “Mỗi cuốn sách là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú và đến gần hơn với con người”. Điều kì diệu gì đã khiến cho những trang sách có một năng lực, sức mạnh kì diệu đến vậy. Phải chăng là bởi “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”?

Advertisement

Sách là một báu vật có từ ngàn đời trước, là nơi đúc kết những tinh hoa của người xưa để lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau. Đó là những kinh nghiệm, những trí thức, là những sản phẩm thuộc về đời sống tinh thần của con người, giúp con người phát triển mà không quên đi nguồn cội của chính mình. Ngọn đèn sáng bất diệt là ngọn đèn không bao giờ tắt, luôn cháy sáng mạnh mẽ, tỏa ra một nguồn sức mạnh vĩ đại. Ví “sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”, tác giả ngầm khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của sách, đặc biệt trong việc cung cấp tri thức cho con người.

Sách có từ lâu đời trước, xưa kia sách là những thẻ tre, những hang động mái đá hay lớp da dê mà người cổ đại khắc chữ lên đấy. Cứ như vậy cùng với sự phát triển văn minh của thời đại, con người đã phát minh ra các loại giấy viết đóng thành quyển trong đó chứa những nội dung giá trị mà như ngày nay ta gọi là sách. Tại sao lại nói sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người. Sách là nơi kết tinh tinh hoa của ngàn thế hệ lưu trữ lại, qua sách ta có thể trở về với quá khứ, có thể hiểu những gì ở hiện tại, ở những thế giới rộng lớn mênh mông hơn. Sách cung cấp cho ta một nguồn hiểu biết phong phú, rộng lớn trên nhiều lĩnh vực, nhiều phương diện, góp phần làm đầu óc ta giàu có, phong phú và khôn ngoan hơn. Những bài học trong sách là những giá trị tư tưởng đã được kết tinh gửi gắm, chứa đựng những giá trị nhân sinh nhờ vậy giúp ta sống người hơn.

Ta có thể ngồi xó nhà mà vẫn tìm hiểu được thế giới, có thể hiểu được văn hóa, xã hội lịch sử tinh hoa của loài người cũng là nhờ có sách mà ra. Con người có thể mất đi chứ không bao giờ tồn tại vĩnh hằng cả, nhưng sách được lưu truyền từ đời này sang đời khác nên không bị mai một, bị thiêu hủy. Nhờ vậy qua càng nhiều thế hệ, những kho báu trong sách càng phong phú thêm, chứ không bị mai một đi. Ở mỗi độ tuổi, khi đã qua những thăng trầm, sóng gió của cuộc đời ta lại có cách thưởng thức giá trị của sách khác nhau. Người xưa có câu: tuổi trẻ đọc sách như nhìn trăng qua kẽ lá, lớn tuổi tuổi đọc sách như ngắm trăng qua cửa sổ. Muốn đọc sách tốt, muốn hấp thu được những tinh hoa của sách để sách đích thực là ngọn đèn sáng bất diệt trong tâm hồn chúng ta thì chúng ta phải biết trau dồi, tìm hiểu nâng cao trình độ và vốn sống cho bản thân để cho mình một bài học về sự trông nhìn và thưởng thức.

Có thể nói, sách mở ra trước mắt ta những chân trời mới, nhưng điều quan trọng là ta cần biết chọn sách mà đọc, để tiếp thu được những tinh hoa quý giá từ người xưa mà biến ngọn đèn sáng bất diệt ấy hóa sáng soi đường cho tâm hồn mình. Khi đọc sách cần chọn được loại sách phù hợp với độ tuổi, tâm lý, và sở thích của mình. Đọc sách trước hết cần hiểu, sau đó vận dụng sáng tạo những điều đã học được vào cuộc sống. Đọc sách cần chăm chú, nghiêm túc chứ không phải là cưỡi ngựa xem hoa, chỉ lờ vờ ra vẻ mình là người biết đọc sách thích đọc sách.

Mỗi trang sách chứa đựng những giá trị, tinh hoa của nhân loại ngàn đời tích lũy. Nó chưng cất và lưu giữ không chỉ kiến thức mà còn là vẻ đẹp tâm hồn của người xưa, để tạo nên một nhịp cầu giúp thế hệ nay giao thoa, tiếp nhận và hiểu được đời sống tinh thần thâm thúy của người xưa. Sách là cỗ xe kỳ diệu giúp ta vượt thời gian, không gian tìm đến những vùng đất mới, con người mới, văn hóa mới để thả hồn ta thêm giàu đẹp, hướng ta đến chân thiện mỹ. Đó chính là ánh sáng bất diệt nhất mà sách có khả năng tạo ra. Hãy trân trọng sách và coi nó như người bạn nhỏ thân thiết mà lớn lao của mình.

Bài văn mẫu số 6

Khi cuộc sống phát triển thì đòi hỏi con người phải luôn cập nhật, tiếp thu những kiến thức mới. Và sách chính là công cụ hữu hiệu giúp cho con người học tập có hiệu quả. Vì vậy, có câu nói rằng: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”.

Trước hết cần phải khẳng định đây là một câu nói đúng, nó đã khẳng định vai trò của sách trong đời sống con người. Sách chính là chìa khóa mở ra kho tàng tri thức của nhân loại. Sách chứa đựng những thông tin về lịch sử, địa lý, xã hội… Sách chứa đựng những tư tưởng sâu xa, những triết lý về nhân sinh cuộc đời khiến chúng ta phải suy ngẫm. Sách là người thầy cung cấp cho chúng ta những điều mới lạ, khuyên răn, chỉ bảo những điều hay lẽ phải.

Đồng thời sách cũng giống như một người bạn hiền luôn bên cạnh mỗi lúc ta gặp khó khăn trong cuộc sống. Những lúc buồn chán, sách lại giống như viên thuốc xoa dịu những vết thương lòng. Trong những khoảng thời gian rảnh rỗi, đọc sách là một cách để giải trí đầu óc, thư thái tâm hồn. Đọc sách là một thói quen tốt và lành mạnh. Có thể nói sách đem đến cho chúng ta một chân trời mới, khiến cho cuộc sống thêm thú vị hơn.

Tuy nhiên bên cạnh đó, nhiều người lại sử dụng sách một cách sai trái. Những cuốn sách không được kiểm duyệt, mang nội dung tư tưởng lệch lạc được bày bán trên thị trường khiến nhiều người mua nhầm, hiểu sai giá trị thật. Do vậy, chúng ta cũng cần đọc sách một cách có chọn lọc. Những cuốn sách hay, có giá trị luôn mở ra con đường dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Sách là nguồn trí thức vô tận để ta học tập và vươn xa hơn. Tuy nhiên, bản thân chúng ta cần phải biết chọn lựa và sử dụng sách một cách hợp lý để sách đem lại giá trị cho người đọc.

Mở bài gián tiếp Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ Mở bài gián tiếp – Mẫu 1

Từ xưa đến nay sách được xem là kho báu kiến thức bất tận của nhân loại, đóng góp vào sự phát triển về nhận thức và nhân cách của con người. Khi bàn về vai trò của sách có ý kiến cho rằng: “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người”.

Mở bài gián tiếp – Mẫu 2

M.Gorki từng nói: “Mỗi cuốn sách là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú và đến gần hơn với con người”. Điều kì diệu gì đã khiến cho những trang sách có một năng lực, sức mạnh kì diệu đến vậy. Phải chăng là bởi “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”?

Mở bài gián tiếp – Mẫu 3

“Đọc sách hay cũng giống như trò chuyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.”(Rene Descartes). Nguồn tri thức mà sách đem lại cho con người là những giá trị không thể phủ nhận từ xưa tới nay. Và như một nhà văn đã từng nói: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của tri thức”.

Kết bài gián tiếp Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ Kết bài gián tiếp – Mẫu 1

Sách chính là sản phẩm trí tuệ của con người, được tạo ra giúp lưu trữ trí tuệ của con người. Nó sẽ được lưu truyền qua năm tháng, tồn tại bất diệt. Bởi vậy, chúng ta cần biết trân trọng, bảo vệ và có phương pháp đọc sách đúng đắn.

Kết bài gián tiếp – Mẫu 2

Mỗi trang sách chứa đựng những giá trị, tinh hoa của nhân loại ngàn đời tích lũy. Nó chưng cất và lưu giữ không chỉ kiến thức mà còn là vẻ đẹp tâm hồn của người xưa, để tạo nên một nhịp cầu giúp thế hệ nay giao thoa, tiếp nhận và hiểu được đời sống tinh thần thâm thúy của người xưa. Sách là cỗ xe kỳ diệu giúp ta vượt thời gian, không gian tìm đến những vùng đất mới, con người mới, văn hóa mới để thả hồn ta thêm giàu đẹp, hướng ta đến chân thiện mỹ. Đó chính là ánh sáng bất diệt nhất mà sách có khả năng tạo ra. Hãy trân trọng sách và coi nó như người bạn nhỏ thân thiết mà lớn lao của mình.

Kết bài gián tiếp – Mẫu 3

Chọn sách để đọc cũng như chọn bạn mà chơi vốn dĩ là điều mà rất nhiều người đã biết. Trí tuệ của con người được tích lũy qua những trang sách và ngày càng phát triển theo những cuốn sách đó. Vậy mỗi chúng ta cần biết được mình cần gì, có thể học được gì từ sách thì hãy tìm cuốn sách đó để học. Không những bạn có thêm kiến thức mà còn giúp cho tinh thần bạn được thư giãn, thoải mái hơn. Quả vậy, “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người”.

Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Tục Ngữ Thất Bại Là Mẹ Thành Công 3 Dàn Ý & 23 Mẫu Bài Văn Mẫu Lớp 7

Giải thích câu Thất bại là mẹ thành công

Nội dung chi tiết của tài liệu bao gồm 3 dàn ý và 23 bài văn mẫu lớp 7, cùng với các mẫu mở bài gián tiếp, kết bài gián tiếp. Các bạn học sinh có thể tham khảo ngay sau đây.

1. Mở bài

Giới thiệu về câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công”.

2. Thân bài

a. Giải thích

“Thất bại” là những lần vấp ngã, khó khăn trong công việc và cuộc sống.

“Thành công” là đạt được những kết quả đạt được theo ý ta muốn, và công việc đó được hoàn thành tốt đẹp, xuất sắc.

“Mẹ” là người phụ nữ có ơn sinh thành, dưỡng dục mỗi người.

b. Mở rộng vấn đề

– Thất bại giúp con người:

Có thêm những bài học, kinh nghiệm.

Mạnh mẽ, bản lĩnh hơn khi đối mặt với khó khăn, thử thách.

Vững bước cho chặng đường sau đó để đạt được thành công.

– Dẫn chứng: Thế giới ( Thomas Edison, Abraham Lincoln…); Việt Nam (Cao Bá Quát, Chủ tịch Hồ Chí Minh…)

– Bài học và liên hệ bản thân:

Không nên nản chí, cần rèn luyện bản lĩnh và mạnh mẽ vươn lên để chinh phục những mục tiêu.

Thất bại chỉ là một bước đệm để chúng ta bật nhảy tới vạch đích của thành công.

Học sinh cần cố gắng trau dồi kiến thức và kĩ năng, không ngại khó khăn…

3. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa của câu tục ngữ đối với mỗi người trong cuộc sống.

Lời răn dạy được gửi gắm qua câu “Thất bại là mẹ thành công” thật giá trị. “Thành công”, đơn giản là khi bạn đạt được mọi mong muốn của bản thân. Còn thất bại thì ngược lại, đó là khi chúng ta không thể đạt được mục tiêu, ước mơ của bản thân. Hai khái niệm đối lập nhau đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó qua từ “mẹ”. Từ đó, chúng ta thấy được rằng có thất bại thì mới có thành công. Nhờ có thất bại đã dạy cho con người kinh nghiệm quý giá, để tiến tới thành công. Con đường đến với thành công không bằng phẳng, mà luôn thử thách chúng ta bằng những “mũi gai nhọn”. Steven Spielberg – một trong những nhà sản xuất phim lớn nhất mọi thời đại. Những bộ phim nổi tiếng của ông như: Jaws, Jurassic Park, Saving Private Ryan… đã tạo nên cơn sốt trên toàn thế giới. Để có được thành công như vậy, ông cũng đã từng nếm trải thất bại khi bị Trường điện ảnh mỹ thuật – Trường Đại học nam California từ chối đến tận hai lần. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục cố gắng với niềm đam mê của mình và trở nên thành công để góp phần xây dựng chính ngôi trường đã từng từ chối mình. Như vậy, câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” là một lời khuyên vô cùng quý giá.

Thành công không đến một cách dễ dàng. Đôi khi, chúng ta gặp phải thất bại, nhưng “Thất bại là mẹ thành công”. Đây là một lời răn dạy ngắn gọn nhưng giàu giá trị. Đầu tiên “thành công” và “thất bại” là hai khái niệm đối lập nhau. Nếu “thất bại” là không đạt được kết quả như mong muốn mà mỗi người đã đặt ra. Thì “thành công” là khi chúng ta đạt được những điều mình mong muốn, hoàn thành tốt những mục tiêu đã đề ra. Còn “mẹ” chính là người phụ nữ đã sinh chúng ta ra đời, nuôi nấng và dạy dỗ cho chúng ta những nhiều bài học. Câu tục ngữ mượn cách nói biểu tượng “thất bại là mẹ thành công” nhằm khẳng định rằng mỗi thất bại trong cuộc đời con người sẽ trở thành một bài học bổ ích để chúng ta tiến đến thành công. Có thành công nào không phải trả giá bằng muôn vàn những khó khăn, thất bại. Nhưng không phải ai cũng có thể vượt qua được những thử thách đó. Những tấm gương như Chủ tịch Hồ Chí Minh, thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí… vẫn còn đó để mỗi người học tập. Tóm lại, chúng ta cần phải nỗ lực không ngừng nghỉ nhưng cũng không đánh mất đi những giá trị tốt đẹp. Ranh giới giữa thành công và thất bại vô cùng mong manh. Hãy ghi nhớ câu nói “Thất bại là mẹ thành công” như một bài học quý giá.

Để đạt được thành công, chắc chắn con người từng phải nếm trải thất bại. Bởi vậy mà ông cha ta đã có câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công”.

Hiểu một cách đơn giản, “thành công” là khi con người đạt được những mong muốn, mục tiêu của bản thân. Còn “thất bại” thì ngược lại, không đạt được mong muốn, mục tiêu của bản thân. Hai khái niệm trên được đặt trong mối quan hệ với từ “mẹ”. Đây là một danh từ, chỉ người đã sinh ra, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Có thể hiểu được rằng, thất bại cũng có vai trò như vậy, dạy cho con người những bài học quý giá, để từ đó rút ra được kinh nghiệm và nỗ lực hơn trước để tiếp tục chinh phục đích đến của sự thành công.

Mỗi người lại có cách đối mặt với thất bại khác nhau. Người có bản lĩnh thì sẽ nhanh chóng vượt qua nỗi buồn, rút ra kinh nghiệm để tiếp tục bước về phía trước. Người không có bản lĩnh sẽ rơi vào chán nản, thất vọng rồi không chịu nỗ lực. Từ đó, thất bại sẽ nối tiếp thất bại. Lời khuyên của câu tục ngữ là vô cùng giá trị đối với mỗi người.

Trong cuộc sống, có rất nhiều tấm gương lớn minh chứng cho câu tục ngữ trên. Đó có thể là nhà phát minh vĩ đại Thomas Edison hay vị tỉ phú đáng ngưỡng mộ Bill Gates. Hoặc cũng có thể kể đến chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam.

Còn với một học sinh, việc cần làm là cố gắng học tập chăm chỉ, rèn luyện bản thân và nỗ lực không ngừng trong mọi hoàn cảnh. Tương lai của mỗi người đều phụ thuộc vào chính chúng ta.

“Thất bại là mẹ thành công” là một lời khuyên vô cùng giá trị. Chúng ta hãy coi thất bại là một điểm tựa để vượt lên, tiến tới đích đến thành công.

Chặng đường đến với thành công, luôn phải trải qua khó khăn hay thậm chí là thất bại. Bởi vậy mà ông cha ta đã gửi gắm lời khuyên nhủ “Thất bại là mẹ thành công” vô cùng quý giá với mỗi người.

Về “thành công”, hiểu đơn giản nhất, là khi con người đạt được những mong muốn, mục tiêu của bản… Còn “thất bại” là không đạt được mong muốn, mục tiêu của bản thân. Hai khái niệm trên hoàn toàn đối lập nhau nhưng trong câu tục ngữ này lại được đặt trong mối quan hệ gắn bó qua từ “mẹ” – chỉ người đã sinh ra, chăm sóc và dạy dỗ mỗi người. Từ đó, nhờ có thất bại đã dạy cho con người những bài học quý giá, để từ đó rút ra được kinh nghiệm và nỗ lực hơn trước để tiếp tục chinh phục đích đến của sự thành công.

Khi đối mặt với thất bại, con người thường cảm thấy buồn bã, chán nản. Người có bản lĩnh cần vượt qua được cảm xúc ban đầu, nhìn nhận lại mọi vấn đề để từ đó rút ra được những bài học quý giá từ thất bại, và tiếp tục nỗ lực hơn nữa. Tin chắc rằng phía cuối con đường là trái ngọt đang chờ đợi. Người không có bản lĩnh sẽ rơi vào khủng hoảng, luôn chìm đắm trong sự chán nản, không chịu phấn tiếp tục phấn đấu. Từ đó, thất bại sẽ nối tiếp thất bại. Bởi vậy mà lời khuyên của câu tục ngữ rất ý nghĩa đối với mỗi người.

Thomas Edison là một nhà phát minh vĩ đại, trước khi thành công, ông cũng đã phải trải qua hàng nghìn lần thất bại. Để tìm ra con đường đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã phải rút kinh nghiệm từ thất bại của các bậc tiền nhân. Bởi vậy mới thấy rằng, ngay cả những con người vĩ đại, họ cũng cần học tập từ thất bại.

Là một học sinh, em luôn cố gắng học tập thật tốt, tích cực rèn luyện bản thân. Nhờ có câu tục ngữ, em tin rằng bản thân sẽ biết cách vượt qua được khó khăn, thử thách để đạt được những mục tiêu của mình.

Tóm lại, “Thất bại là mẹ thành công” thực sự là một lời khuyên đúng đắn, giá trị. Mỗi người hãy ghi nhớ, để có được cách đối diện đúng đắn với thất bại trong cuộc sống.

Đó là những lời trong bài hát “Đường đến ngày vinh quang” của cố nhạc sĩ Trần Lập. Quả thật có thành công nào mà không phải nếm trải mùi vị của sự thất bại. Điều ấy cũng được thể hiện trong câu tục ngữ: “Thất bại là mẹ thành công”.

Trước hết, câu tục ngữ sử dụng hai khái niệm đối lập nhau: “thất bại – thành công”, được đặt trong một mối quan hệ gắn bó qua từ “mẹ”. Cần phải hiểu thất bại là lần vấp ngã, khó khăn trong công việc và cuộc sống. Đó là khi ta đặt ra một mục tiêu nhưng lại không thể thực hiện được. Còn thành công là khi con người đạt được những kết quả theo ý muốn trong học tập, công việc hay cuộc sống. Người thành công luôn nhận được sự ngưỡng mộ và kính trọng của người khác. Còn người thất bại thì ngược lại. Vậy tại sao “thất bại” lại là “mẹ của thành công”. Đơn giản là khi thất bại, con người sẽ biết rút ra những bài học quý báu, từ đó có được kinh nghiệm để tránh mắc phải những sai lầm. Sau mỗi lần thất bại, con người trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn và hoàn thiện bản thân mình hơn. Từ đó, con đường đến với thành công sẽ dễ dàng hơn. Thất bại cũng giống như người mẹ – dạy dỗ cho con người những bài học để có thể trưởng thành – đạt được thành công.

Trong đời mỗi người, không ai là chưa từng thất bại. Có người lựa chọn trốn tránh hay chấp nhận thất bại. Những người như vậy chắc chắn sẽ không thể đạt được thành công. Nhưng có người lại dám dũng cảm đối mặt với thất bại. Họ biết nhìn nhận lại bản thân, tìm ra sai lầm và rút kinh nghiệm. Thành công chẳng đến một cách dễ dàng nhưng nếu con người luôn kiên trì, nó sẽ chờ đợi bạn ở cuối con đường. Đó chính là thái độ mà câu tục ngữ này muốn khuyên nhủ đến con người.

Chắc hẳn tuổi thơ của con người không ai là không biết đến những bộ phim hoạt hình của hãng phim Walt Disney. Nhưng có lẽ ít ai quan tâm đến cuộc đời của ông chủ hãng phim này. Walt Disney – ông chủ của hãng phim này đã từng chia sẻ về thất bại trong cuộc đời mình. Ông từng bị đuổi việc khỏi Kansas City Star chỉ vì “Ông thiếu trí tưởng tượng và không có những ý tưởng tốt”. Công ty Laugh-O-Gram animation studio của ông phải đối mặt với việc bị phá sản. Ông đã phải trải qua rất nhiều khó khăn trước khi thành lập được công ty Walt Disney – công ty đã đem đến lợi nhuận hàng tỷ đô mỗi năm cho ông. Gần gũi nhất với nhân dân Việt Nam, có lẽ chính là Bác Hồ – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người đã từng bôn ba suốt ba mươi năm ở nước ngoài, từng làm đủ các nghề để kiếm sống. Cũng như từng nhiều lần bị bắt khi hoạt động cách mạng. Nhưng cuối cùng bằng lòng yêu nước, nghị lực phi thường, sự kiên trì không ngại khó khăn và việc rút kinh nghiệm từ những sai lầm của thế hệ đi trước, Bác Hồ đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân ta. Để từ đó, dân tộc ta đã đấu tranh và giành lại độc lập dân tộc.

Đối với một học sinh, cần phải có được thái độ đúng đắn khi gặp phải những khó khăn trong học tập: “Thắng không kiêu, bại không nản”. Chúng ta hãy luôn kiên trì vượt qua mọi khó khăn, dũng cảm đối đầu với thử thách mới có thể gặt hái được những “trái ngọt” của thành công.

Quả là câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” đã gửi gắm bài học sâu sắc. Chính vì vậy, mỗi người hãy ghi nhớ bài học đó trên hành trình tìm đến với thành công của mình.

Trên bước đường đời của chúng ta muốn có được những thành công trong sự nghiệp cũng như cuộc sống thì chúng ta đều phải trải qua những gian khổ, quá trình khổ luyện, làm việc miệt mài. Trong quá trình gian khổ ấy có thể chúng ta sẽ gặp những thất bại, những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, cũng từ những thất bại ấy mà chúng ta mới có được những bài học quý báu. Chính vì thế cha ông ta đã từng nói “thất bại là mẹ thành công”. Nhưng để hiểu được điều này chúng ta cần phải hiểu được ý nghĩa của câu tục ngữ này.

Trước tiên, phải hiểu thất bại là gì? Thất bại chính là những lần vấp ngã là khi công việc của chúng ta không suôn sẻ, chúng ta nỗ lực nhưng không đạt được kết quả như mong đợi. Còn thành công có nghĩa là đạt được những kết quả mà ta mong muốn và hoàn thành công việc thuận lợi tốt đẹp nhất. Mẹ sinh ra con, nhờ có mẹ mới có con. Từ ý nghĩa trên ông bà ta muốn nhắn nhủ với chúng ta những thất bại trong cuộc sống sẽ giúp ta thành công trên đường đời.

Tại sao cha ông ta lại nói thất bại là mẹ thành công? Mới mở đầu ta thấy câu nói trên có vẻ trái ngược với nhau. Thất bại là mẹ thành công là hai chuyện trái ngược nhau, không hề có liên hệ gì với nhau cả. Nhưng sau khi suy ngẫm ta thấy được rằng câu tục ngữ này chẳng hề vô lý chút nào. Bởi vì sau những lần thất bại ta sẽ tìm ra được nguyên nhân dẫn đến những sai sót của ta, từ đó rút được những kinh nghiệm quý báu giúp ta tránh được những sai lầm đó.

Đối với những người dễ nản chí thì câu nói này không đúng nhưng đối với những kiên trì và bền chí thì chắc chắn đúng. Để đạt được những thành công thì những vấp ngã thiếu sót ấy là không thể tránh khỏi.

Đó là một điều vô cùng tất yếu. Thất bại sẽ giúp ta rèn luyện ý chí, tự tin và bản lĩnh hơn rất nhiều. Trong cuộc sống thường ngày, mấy ai trong chúng ta không gặp những sai phạm vấp ngã. Khi chúng ta còn nhỏ trong những lần chập chững biết đi, chẳng phải chúng ta đã vấp ngã sao? Trong những lần ấy nếu chúng ta buông xuôi thì nhất định sẽ không thể biết đi được. Cũng giống như nhà bác học Louis Pasteur lúc còn nhỏ là một hoc sinh trung bình, ông chỉ là một trong sinh trung bình mà thôi nhưng ông đã vượt qua được những khó khăn đó và đạt được thành công và trở thành một nhà bác học nổi tiếng.

Như vậy chúng ta đừng bao giờ sợ sự thất bại, bởi vì nếu như chúng ta sợ sự thất bại thì sẽ không mắc một sai lầm nào hết mà nếu như chúng ta mắc sai lầm thì sẽ không thể thành công được. Nếu như lúc nào các bạn cũng lo lắng mình sẽ gặp thất bại thì bạn sẽ chẳng bao giờ tự lập được cả. Bạn sợ ngã xe và không dám đạp xe thì cả đời bạn sẽ không dám đi xe. Bạn sự nước thì bạn mãi mãi sẽ không bao giờ biết bơi. Cuộc sống không phải bao giờ cũng trải qua đầy hoa hồng và niềm vui đâu các bạn ạ. Mà nó bao gồm cả những thất bại đầy cay đắng và chúng ta cần phải trải qua, để đạt được mốc thành công. Chúng ta không làm được những việc nhỏ nhặt thì những việc lớn chúng ta cũng sẽ không thể làm được, chúng ta cần phải đương đầu với những khó khăn thử thách. Mặc dù nó đem lại cho ta không ít những mất mát nhưng nó mang lại cho chúng ta không ít lợi ích.

Tuy nhiên, các bạn cũng cần phải hết sức chú ý chúng ta không phải mù quáng cố làm cho ra những sai lầm. Có người gặp lại lầm thì không thể đứng dậy được chán nản và mãi mãi đứng ở đấy vì chán nản. Nhưng có người phạm sai lầm thì lại càng trưởng thành hơn và thành công hơn. Chính vì thế điều quan trọng nhất đối với chúng ta vẫn là cách chúng ta xử trí những tình huống nguy nan gian khó nhất. Ta cần phải tự tin lạc quan để vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống.

Mỗi lần gặp khó khăn thì chúng ta cũng đừng nên quá bi quan mà hãy lạc quan bước về phía trước, hãy dũng cảm vượt qua những khó khăn và cuộc đời dành tặng cho ta, hãy luôn nghĩ rằng cuộc sống sẽ giúp chúng ta thành công hơn nhưng niềm tin mới là điều chắc chắn.

Là một học sinh, sinh viên chúng ta vẫn gặp rất nhiều thất bại như bị điểm kém, bị thầy cô phê bình, cha mẹ vẫn không hài lòng với kết quả chúng ta. Nhúng chúng ta hãy đừng nản chỉ, không buông xuôi và ngược lại, ta phải cố gắng nỗ lực hơn trong học tập. Và không chỉ trong học tập mà còn trong những điều khác trong cuộc sống chúng ta cũng phải không được nản chỉ và buông xuôi.

Câu tục ngữ là một lời dạy bảo thiết thực về những kinh nghiệm trong cuộc sống. Khi chúng ta hiểu được những điều đó thì những thất bại khó khăn trong cuộc sống sẽ không còn là gì nữa.

Cuộc sống là một chặng hành trình đầy khó khăn và thử thách mà con người cần phải vượt qua. Ai cũng khao khát đạt được thành công. Và điều đó đã trở thành đích đến cho mọi nỗ lực của chúng ta. Ông cha ta đã có câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” để khuyên nhủ con người.

Thành công chính là kết quả, thành quả ngọt ngào mà một người gặt hái được sau những ngày tháng nỗ lực, cống hiến hết mình cho một công việc, mục đích nào đó. Nói một cách khác thành công chính là việc ta thực hiện được mục đích ban đầu mà ta đã đặt trong trong công việc, học tập, hay một lĩnh vực cụ thể nào đó. Thất bại là những lần ta vấp ngã, những lần ta không đạt được kết quả như mong muốn trong học tập, công việc hay cuộc sống. Còn hình ảnh “mẹ” chính là người phụ nữ đã sinh chúng ta ra đời, nuôi nấng và dạy dỗ cho chúng ta những nhiều bài học. Tóm lại cách nói “thất bại là mẹ thành công” nhằm khẳng định rằng mỗi thất bại trong cuộc đời con người sẽ trở thành một bài học bổ ích để chúng ta tiến đến thành công.

Cuộc sống là một cuộc hành trình gian nan với nhiều thử thách. Đôi khi vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà con người không thể có đạt được thành công, để rồi từ đó rơi vào thất bại. Nhưng chính từ những thất bại đó, chúng ta học được nhiều bài học khác nhau. Vì sau khi mỗi lần thất bại ta sẽ tìm được nguyên nhân dẫn đến sai sót của công việc, giúp ta có kinh nghiệm và giúp ta tránh được những sai lầm và bước tiếp đến thành công. Nhà bác học thiên tài, Thomas Edison đã phải trải qua hàng nghìn lần thất bại để tìm ra nguyên liệu để thắp sáng chiếc bóng đèn đầu tiên của nhân loại. Dân tộc Việt Nam đã phải trải qua vô số những cuộc khởi nghĩa thất bại, sai lầm từ con đường cứu nước để rồi chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của đất nước đã tìm ra ánh sáng của lí tưởng cách mạng vô sản, lãnh đạo nhân dân đánh bại thực dân Pháp. Mọi thành công của hiện tại là kết quả của thất bại ở quá khứ.

Như vậy, câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” là vô cùng đúng đắn. Mỗi người hãy ghi nhớ để từ đó biết vượt lên mọi nghịch cảnh, hoàn thiện bản thân. Chắc chắn rằng, thành công luôn ở phía cuối con đường.

Thành công chính là mục tiêu sống, là đích đến của mỗi con người. Con người chúng ta khi sinh ra lớn lên ai cũng muốn mình được thành công, khẳng định vị trí của mình trong công việc trong xã hội, được nhiều người ngưỡng mộ, nể phục cảm thấy mình làm được nhiều điều vĩ đại lớn lao. Nhưng đôi khi, thành công không đến dễ dàng, đôi khi chúng ta gặp phải thất bại. Chính vì vậy cần phải ghi nhớ rằng: “Thất bại là mẹ thành công”.

Đầu tiên “thành công” và “thất bại” là hai khái niệm khác nhau. Nếu thất bại là những lần ta vấp ngã, những lần ta không đạt được kết quả như mong muốn trong học tập, công việc hay cuộc sống. Thì thành công là khi chúng ta đạt được những điều mình mong muốn, hoàn thành tốt những mục tiêu đã đề ra trong học tập, công việc. Còn “mẹ” chính là người phụ nữ đã sinh chúng ta ra đời, nuôi nấng và dạy dỗ cho chúng ta những nhiều bài học. Câu tục ngữ mượn cách nói biểu tượng “thất bại là mẹ thành công” nhằm khẳng định rằng mỗi thất bại trong cuộc đời con người sẽ trở thành một bài học bổ ích để chúng ta tiến đến thành công.

Quả thật, có thành công nào không phải trả giá bằng muôn vàn những khó khăn, thất bại. Nhưng không phải ai cũng có thể vượt qua được những thử thách đó. Biết bao nhiêu doanh nghiệp khi mới thành lập thì hừng hực khí thế, nhưng đến khi gặp phải khó khăn lại loay hoay không biết phải xoay sở ra sao, phải nhờ đến sự giúp đỡ của Nhà nước. Có rất nhiều sinh viên khi còn đang đi học, không chịu cố gắng học tập để nâng cao kiến thức cũng như rèn luyện các kỹ năng mềm. Họ chỉ biết ngày đêm chìm trong những cuộc vui chơi, sa ngã vào những tệ nạn xã hội. Đến khi sắp ra trường vẫn không biết được tương lai mình sẽ như thế nào, mục tiêu của bản thân là gì. Thế mới thấy rằng, thất bại không đáng sợ, quan trọng là cách đối diện với thất bại của mỗi con người. Chỉ khi biết chấp nhận, vượt qua thì con người mới có thể vươn tới thành công.

Chắc hẳn nhiều người đã từng nghe đến cái tên Arianna Huffington. Bà là một nữ doanh nhân, một chính trị gia, một nhà báo và là người phụ nữ quyền lực nhất giới truyền thông. Để có được thành công như vậy, bà từng nhận phải thất bại trong cuộc chạy đua tổng thống Mỹ năm 2003. Sự nghiệp xuất bản sách của bà cũng gặp nhiều khó khăn, khi trước đó những cuốn sách đã bị nhiều nhà xuất bản từ chối. Tuy nhiên, không vì thế mà Arianna Huffington nản lòng. Với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao độ dám vượt lên thất bại. Để rồi hiện nay, rất nhiều cuốn sách của bà đã được độc giả đón nhận.

Tóm lại, chúng ta cần phải nỗ lực không ngừng nghỉ nhưng cũng không đánh mất đi những giá trị tốt đẹp. Ranh giới giữa thành công và thất bại vô cùng mong manh. Hãy ghi nhớ câu nói “Thất bại là mẹ thành công” như một bài học quý giá.

Kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam chứa đựng nhiều bài học giá trị. Một trong số đó là câu “Thất bại là mẹ thành công” là lời khuyên giá trị dành cho mỗi người.

Không có bất kỳ sự thành công nào của họ đến một cách dễ dàng. Bản thân họ đều phải luôn cố gắng trau dồi, rèn luyện bản thân để chinh phục được mục tiêu mà mình đã đặt ra. Không chỉ vậy, chẳng có thành công nào là mãi mãi nên khi đạt được thành công chúng ta không nên tự thỏa hiệp mà dễ dàng ngủ quên trên chiến thắng của ngày hôm qua. Chắc hẳn chúng ta đều biết đến Thomas Edison – một nhà khoa học vĩ đại đã từng thất bại hơn rất nhiều lần mới phát minh ra được chiếc bóng đèn đầu tiên cho nhân loại. Ông từng nói rằng: “Rất nhiều thất bại trong cuộc sống đều do người ta không nhận ra rằng họ đã gần với sự thành công tới chừng nào và họ chấp nhận từ bỏ công việc của mình” . Nếu không nhờ có lòng say mê và trí tuệ hơn người, liệu ngày nay chúng ta sẽ có những chiếc bóng đèn để sử dụng?

Bên cạnh đó, vẫn có những con người sợ hãi thất bại mà không dám dấn thân. Họ có thể có ước mơ nhưng lại không dám thực hiện nó. Những con người như vậy sẽ mãi mãi chìm đắm trong chuỗi ngày chán nản, thất bại. Chính vì vậy, khi còn là một học sinh, tôi luôn cố gắng học tập thật chăm chỉ để nâng cao kiến thức, tích cực rèn luyện kĩ năng, trau dồi đạo đức để hoàn thiện bản thân ngày càng tốt đẹp hơn.

Như vậy, câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” đã đem đến cho con người một lời khuyên vô cùng quý giá. Chúng ta hãy ghi nhớ nó như một kim chỉ nam để cố gắng trong cuộc sống.

Có ai đó đã từng nói rằng: “Muốn thành công thì khao khát thành công phải lớn hơn nỗi sợ bị thất bại”. Bởi vậy mới có câu “Thất bại là mẹ thành công” để nhắc nhở thế hệ sâu bài học về sự thành công cuộc sống.

Không có một định nghĩa nào cố định về thành công. Nhưng nếu hiểu theo cách đơn giản nhất, “thành công” là khi con người đạt được những mong muốn của bản thân, đạt được mục tiêu đã đề ra hay hoàn thành tốt công việc được giao phó… “Thất bại” là khi vấp phải khó khó khăn, thử thách để rồi không đạt được những điều mà chúng ta mong muốn. Còn “mẹ” là người đã sinh ra mỗi người, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng ta. Thành công và thất bại được đặt trong một mối quan hệ gắn bó nhờ từ “mẹ”. Qua đó câu tục ngữ khẳng định rằng, thất bại đã dạy cho con người những bài học quý giá. Sau khi trải qua thất bại con người sẽ rút kinh nghiệm từ đó, nỗ lực hơn trước để tiếp tục chinh phục đích đến của sự thành công.

Hành trình đến với thành công chẳng bao giờ là điều dễ dàng. Bởi vậy mà con người luôn phải nỗ lực rèn luyện để đạt được điều đó. Nhưng có đôi khi, chúng ta phải đối mặt với thất bại. Dù vậy, thì cách đối mặt với thất bại vẫn là điều quan trọng nhất. Có lẽ không ai quên được cái tên Thomas Edison. Với rất nhiều bằng sáng chế mang tên mình, Thomas Edison được mệnh danh là nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại. Các phát minh của ông thực sự đã làm thay đổi lịch sử toàn nhân loại. Tuy nhiên, có mấy ai biết được rằng thuở còn đi học, các giáo viên dạy Edison đã cho rằng ông “quá ngu ngốc nên không thể học bất cứ điều gì”. Ông đã trải qua giai đoạn trưởng thành nhờ sự dạy dỗ của người mẹ. Khi nghiên cứu để phát minh ra chiếc bóng đèn – một phát minh đã làm thay đổi cả thế giới loài người. Thomas Edison đã làm thí nghiệm thất bại đến rất nhiều lần. Chiếc bóng đèn mà Thomas Edison tạo ra được thắp sáng bằng chính sự kiên trì, cố gắng không mệt mỏi và đam mê với công việc của ông. Ông từng nói rằng: “Rất nhiều thất bại trong cuộc sống đều do người ta không nhận ra rằng họ đã gần với sự thành công tới chừng nào và họ chấp nhận từ bỏ công việc của mình”. Trở về với Việt Nam, Trịnh Long Vũ – một MC nổi tiếng của gameshow chiếc nón kỳ diệu, anh là một tấm gương sáng cho chân lý “nếu theo đuổi đam mê, thành công sẽ theo đuổi bạn”. Dù từng trải qua thất bại, nhưng anh vẫn tiếp tục nỗ lực để có đạt được thành công cho riêng mình.

Bản thân mỗi người khi đạt được thành công đều phải luôn cố gắng trau dồi, rèn luyện bản thân để chinh phục được mục tiêu mà mình đã đặt ra. Không chỉ vậy, chẳng có thành công nào là mãi mãi nên khi đạt được thành công chúng ta không nên tự thỏa hiệp mà dễ dàng ngủ quên trên chiến thắng của ngày hôm qua.

Như vậy, thất bại và thành công luôn có mối quan hệ với nhau. “Thất bại là mẹ thành công” – một lời khuyên sâu sắc, ý nghĩa dành cho mỗi con người.

Không có con đường nào đến với thành công mà không phải trải qua sự thất bại. Bởi vậy mà câu “Thất bại là mẹ thành công” chính là một lời khuyên quý giá dành cho mỗi con người trong cuộc sống.

Thành công, đơn giản là khi bạn đạt được mọi mong muốn của bản thân. Mỗi người khác nhau có một định nghĩa khác nhau về thành công. Có người cho rằng có một công việc ổn định là thành công, có người cho rằng có một gia đình hạnh phúc là thành công nhưng cũng có người cho rằng có thể sống tự do tự tại là thành công. Còn thất bại thì ngược lại, đó là khi chúng ta không thể đạt được mục tiêu, ước mơ của bản thân. Với từ “mẹ” – thành công và thất bại đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó. Có thất bại thì mới có thành công. Nhờ có thất bại đã dạy cho con người kinh nghiệm quý giá, để tiến tới thành công.

Advertisement

Con người muốn đạt được thành công cần có bản lĩnh kiên cường. Bởi những mục tiêu, ước mơ luôn đặt ra những thử thách. Con đường không bằng phẳng, mà luôn thử thách chúng ta bằng những “mũi gai nhọn”. Có lẽ tất cả những người đạt được thành công đều đã từng phải nhận sự thất bại. Nhưng mỗi người lại có một cách đối mặt khác nhau. Có người sợ hãi, lùi bước và không dám tiếp tục sẽ chỉ chìm đắm trong thất bại. Có người dám vượt qua, bước tiếp và rút kinh nghiệm sẽ nhanh chóng đến đích.

Những người đam mê điện ảnh chắc hẳn sẽ biết đến cái tên Steven Spielberg – một trong những nhà sản xuất phim lớn nhất mọi thời đại. Những bộ phim nổi tiếng của ông như: Jaws, Jurassic Park, Saving Private Ryan… Để có được thành công như vậy, thì ông cũng đã phải nếm trải nhiều thất bại. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục cố gắng với niềm đam mê của mình, và trở nên thành công để góp phần xây dựng chính ngôi trường đã từng từ chối mình. Không chỉ trên thế giới ở Việt Nam cũng có rất nhiều tấm gương tiêu biểu. Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Suốt nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Người phải làm nhiều nghề để kiếm sống có những lúc nghèo khổ tưởng như không có gì để ăn. Nhưng không ngại khó khăn gian khổ, Người luôn giữ vững tinh thần của người chiến sĩ cộng sản. Bác thông thạo nhiều thứ tiếng nước ngoài, tham gia phong trào công nhân quốc tế và tìm ra con đường giải phóng cho nhân dân ta. Khi trở về nước, Bác là người thành lập nên Đảng Cộng Sản Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp và giành được độc lập cho dân tộc. Để có thể đạt được thành công lớn nhất là giành độc lập tự do cho nhân dân – khát vọng duy nhất, Hồ Chủ tịch đã phải trải qua một con đường không hề dễ dàng gì.

Như vậy, câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” là một lời khuyên vô cùng quý giá. Chúng ta hãy coi đó như phương châm để có thể cố gắng để chinh phục thành công.

Chặng đường đến với thành công, luôn phải trải qua khó khăn hay thậm chí là thất bại. Bởi vậy mà ông cha ta đã gửi gắm lời khuyên nhủ “Thất bại là mẹ thành công” vô cùng quý giá với mỗi người.

Về “thành công”, hiểu đơn giản nhất, là khi con người đạt được những mong muốn, mục tiêu của bản… Còn “thất bại” là không đạt được mong muốn, mục tiêu của bản thân. Hai khái niệm trên hoàn toàn đối lập nhau nhưng trong câu tục ngữ này lại được đặt trong mối quan hệ gắn bó qua từ “mẹ” – chỉ người đã sinh ra, chăm sóc và dạy dỗ mỗi người. Từ đó, nhờ có thất bại đã dạy cho con người những bài học quý giá, để từ đó rút ra được kinh nghiệm và nỗ lực hơn trước để tiếp tục chinh phục đích đến của sự thành công.

Khi đối mặt với thất bại, con người thường cảm thấy buồn bã, chán nản. Người có bản lĩnh cần vượt qua được cảm xúc ban đầu, nhìn nhận lại mọi vấn đề để từ đó rút ra được những bài học quý giá từ thất bại, và tiếp tục nỗ lực hơn nữa. Tin chắc rằng phía cuối con đường là trái ngọt đang chờ đợi. Người không có bản lĩnh sẽ rơi vào khủng hoảng, luôn chìm đắm trong sự chán nản, không chịu phấn tiếp tục phấn đấu. Từ đó, thất bại sẽ nối tiếp thất bại. Bởi vậy mà lời khuyên của câu tục ngữ rất ý nghĩa đối với mỗi người.

Thomas Edison là một nhà phát minh vĩ đại, trước khi thành công, ông cũng đã phải trải qua hàng nghìn lần thất bại. Để tìm ra con đường đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã phải rút kinh nghiệm từ thất bại của các bậc tiền nhân. Bởi vậy mới thấy rằng, ngay cả những con người vĩ đại, họ cũng cần học tập từ thất bại.

Là một học sinh, em luôn cố gắng học tập thật tốt, tích cực rèn luyện bản thân. Nhờ có câu tục ngữ, em tin rằng bản thân sẽ biết cách vượt qua được khó khăn, thử thách để đạt được những mục tiêu của mình.

Tóm lại, “Thất bại là mẹ thành công” thực sự là một lời khuyên đúng đắn, giá trị. Mỗi người hãy ghi nhớ, để có được cách đối diện đúng đắn với thất bại trong cuộc sống.

(Tố Hữu)

Câu thơ là một triết lý tuyệt vời. Cuộc đời của con người không phải lúc nào cũng thuận lợi. Thất bại là một phần tất yếu để dẫn đến thành công. Chính sự thất bại đã làm con người trưởng thành, giàu kinh nghiệm và vững vàng đi tới chiến thắng. Vì vậy mà ông cha ta đã đúc kết thành câu tục ngữ để khuyên dạy con, cháu: “Thất bại là mẹ thành công”.

“Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”. Con người cần kiên trì, nỗ lực và không ngại khó khăn, thất bại mới có thể bước đến thành công. Bởi vậy ông cha ta cũng đã có câu: “Thất bại là mẹ thành công” là lời nhắc nhở con cháu bài học ý nghĩa.

Đó là những lời trong bài hát “Đường đến ngày vinh quang” của cố nhạc sĩ Trần Lập. Quả thật có thành công nào mà không phải nếm trải mùi vị của sự thất bại. Điều ấy cũng được thể hiện trong câu tục ngữ: “Thất bại là mẹ thành công”.

Có ai đó đã từng nói rằng: “Muốn thành công thì khao khát thành công phải lớn hơn nỗi sợ bị thất bại”. Bởi vậy mới có câu “Thất bại là mẹ thành công” để nhắc nhở thế hệ sâu bài học về sự thành công cuộc sống.

Con đường bước đến thành công luôn có nhiều chông gai, thử thách. Nhưng khi thấu hiểu tư tưởng câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” chúng em sẽ nỗ lực để vượt qua những thất bại tạm thời để nỗ lực hơn vì những thành công lớn ở phía trước.

Chúng ta cần phải nỗ lực không ngừng nghỉ nhưng cũng không đánh mất đi những giá trị tốt đẹp. Ranh giới giữa thành công và thất bại vô cùng mong manh. Hãy ghi nhớ câu nói “Thất bại là mẹ thành công” như một bài học quý giá.

Thomas Edison từng nói: “Rất nhiều thất bại trong cuộc sống đều do người ta không nhận ra rằng họ đã gần với sự thành công tới chừng nào và họ chấp nhận từ bỏ công việc của mình”. Thất bại giúp con người nhận ra nhiều bài học giá trị. Và câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” đã gửi gắm bài học giá trị cho mỗi người, để luôn nỗ lực trên hành trình chạm đến thành công.

Thất bại khiến con người vấp ngã, nhưng nếu đủ bản lĩnh để vượt qua, chúng ta sẽ sớm ngày đạt được thành công. Câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” đã đem đến cho con người một lời khuyên vô cùng quý giá. Chúng ta hãy ghi nhớ nó như một kim chỉ nam để cố gắng trong cuộc sống.

Văn Mẫu Lớp 7: Chứng Minh Tính Đúng Đắn Của Câu Tục Ngữ Có Chí Thì Nên Dàn Ý & 12 Bài Văn Mẫu Lớp 7

Chứng minh tính đúng đắn của câu Có chí thì nên

Tài liệu bao gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu, cùng với các mẫu mở bài và kết bài gián tiếp. Mong rằng có thể giúp ích cho các bạn học sinh lớp 7.

Chứng minh tính đúng đắn của câu Có chí thì nên

Dàn ý chứng minh tính đúng đắn của câu Có chí thì nên

Chứng minh câu tục ngữ Có chí thì nên (12 mẫu)

Mở bài gián tiếp chứng minh tính đúng đắn Có chí thì nên (6 mẫu)

Kết bài gián tiếp chứng minh tính đúng đắn Có chí thì nên (6 mẫu)

Dàn ý chứng minh tính đúng đắn của câu Có chí thì nên

1. Mở bài

Giới thiệu về câu tục ngữ: “Có chí thì nên”.

2. Thân bài

– Câu tục ngữ là lời khuyên của ông cha muốn nói với con cháu phải biết kiên trì, nỗ lực thì mới thành công.

– Lời khuyên ấy được nhân dân ta thể hiện trong cuộc sống:

Từ xưa: Những lời khuyên dạy xuất hiện nhiều trong các câu ca dao, tục ngữ “Có công mài sắt có ngày nên kim”, “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”…

Hiện tại:

(Hồ Chí Minh)

– Những dẫn chứng cụ thể về lòng kiên trì:

Quá khứ: Mạc Đĩnh Chí, Cao Bá Quát…

Hiện tại: Chủ tịch Hồ Chí Minh, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký…

– Suy nghĩ về đạo lí đó trong tương lai: có giá trị răn dạy thế hệ trẻ phải biết rèn luyện lòng kiên trì…

3. Kết bài

Liên hệ bản thân người viết.

Khẳng định lại câu tục ngữ đem đến một lời khuyên đúng đắn, sâu sắc cho con người.

Chứng minh câu tục ngữ Có chí thì nên Bài văn mẫu số 1

Mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống nhằm giúp con người rèn luyện ý chí, nghị lực. Bởi vậy mà ông cha ta mới có câu “Có chí thì nên” để nhắc nhở con người.

Chỉ với bốn từ rất ngắn gọn, nhưng câu “Có chí thì nên” lại gửi gắm lời khuyên vô cùng giá trị. Người có ý chí kiên cường, đủ bản lĩnh và nghị lực để vượt qua những khó khăn thì chắc chắn sẽ bước đến đích của thành công.

Chúng ta có thể bắt gặp nhiều tấm gương tiêu biểu về ý chí, nghị lực trong cuộc sống. Ví dụ như ở nước ngoài, chúng ta có thể kể đến Thomas Edison, dù thất bại rất nhiều lần, nhưng ông vẫn kiên trì làm thí nghiệm để phát minh ra bóng đèn – một sản phẩm vĩ đại trong cuộc sống của nhân loại ngày nay. Ở Việt Nam có thể kể đến n hà văn Mai Xuân Thưởng. Một người đã bị mất hai cánh tay sau một vụ tai nạn giao thông nhưng vẫn vượt lên trên những mặc cảm, những khổ đau anh đã tự học rồi trở thành một nhà văn. Câu chuyện “Có công mài sắt, có ngày nên kim” cũng là một dẫn chứng tiêu biểu. Lời bà cụ nói với cậu bé có lẽ vẫn còn vang vọng trong mỗi chúng ta: “Mỗi ngày mài thỏi sắt nhỏ đi một tí, sẽ có ngày nó thành kim. Giống như cháu đi học, mỗi ngày cháu học một ít , sẽ có ngày cháu thành tài”.

Với một học sinh – những chủ nhân của đất nước hãy cố gắng nỗ học tập không ngừng, đừng nản chí hay buông xuôi theo dòng chảy cuộc đời. Nhờ có vậy thì ở phía cuối con người mới đạt được hoa thơm, trái ngọt.

Ý chí, nghị lực giúp con người có nguồn sức mạnh to lớn để vượt qua mọi khó khăn, vươn tới thành công. Hãy ghi nhớ câu “Có chí thì nên” trên mỗi bước đường cuộc sống.

Bài văn mẫu số 2

Muốn thành công phải trải qua khó khăn, thử thách. Để vượt qua khó khăn, thử thách phải có ý chí, nghị lực. Bởi vậy mà ông cha ta đã gửi gắm lời khuyên qua câu: “Có chí thì nên”.

Hiểu một cách đơn giản, câu tục ngữ muốn gửi gắm lời khuyên đến con người rằng nếu có “chí” tức là ý chí, nghị lực sẽ vượt qua được mọi khó khăn, để làm “nên” được thành công, đạt được mục tiêu.

Thiên tài cũng cần phải nỗ lực. Và thành công chỉ đến với những người luôn kiên trì, có nghị lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người như vậy. Khi còn là một chàng thanh niên, Người đã phải chứng kiến cảnh tượng nước mất nhà tan, nhân dân lầm than. Tình yêu nước cùng lòng căm thù giặc đã thôi thúc Bác ra đi tìm đường cứu nước. Suốt ba mươi năm bôn ba nước ngoài, dù khổ cực, khó khăn nhưng Người vẫn kiên trì để cuối cùng đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Câu chuyện về nhà bác học Thomas Edison cũng là một dẫn chứng điển hình về ý chí, nghị lực và kiên trì. Trong quá trình phát minh bóng đèn, ông đã phải nếm trải thất bại tới hàng nghìn lần. Nhưng không vì thế mà Edison lựa chọn từ bỏ. Thất bại càng khiến ông nỗ lực hơn, cố gắng nhiều hơn. Dù là thiên tài, họ cũng phải lao động miệt mài, chăm chỉ mới có thể thành công.

Nguyễn Bá Học đã từng khẳng định: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông, cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Trước thử thách, con người thường cảm thấy lo lắng, sợ hãi thậm chí muốn lùi bước. Nhưng nếu rèn luyện được một ý chí kiên cường, cùng nghị lực phi thường, mọi khó khăn đều sẽ chỉ làm thành công của chúng ta thêm rực rỡ. Câu chuyện “Có công mài sắt, có ngày nên kim” cũng là một dẫn chứng tiêu biểu. Lời bà cụ nói với cậu bé có lẽ vẫn còn vang vọng trong mỗi chúng ta: “Mỗi ngày mài thỏi sắt nhỏ đi một tí, sẽ có ngày nó thành kim. Giống như cháu đi học, mỗi ngày cháu học một ít, sẽ có ngày cháu thành tài”. Ngày hôm nay, rất nhiều chàng trai, cô gái có ước mơ, khát vọng và đang ngày đêm cố gắng để hiện thức hóa mọi thứ. Rất nhiều học sinh dù hoàn cảnh gia đình nghèo khó nhưng đã biết vượt khó để có được thành tích học tập đáng ngưỡng mộ… Tất cả đều là thành quả của nghị lực phi thường, ý chí bền bỉ.

Có thể nói rằng, câu tục ngữ “Có chí thì nên” đã đem đến lời khuyên quý giá cho mỗi người. Pauline Kael từng khẳng định rằng: “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường” – hãy luôn giữ cho mình một ý chí kiên cường để vượt qua mọi giới hạn, bước đến thành công.

Bài văn mẫu số 3

Ý chí, nghị lực là một điều rất cần thiết trong cuộc sống hiện tại. Bởi vậy mà ông cha ta đã gửi gắm lời khuyên cho con người qua câu “Có chí thì nên”, tuy ngắn gọn mà rất sâu sắc.

Ngược lại, vẫn còn rất nhiều người sống thiếu ý chí, thiếu nghị lực. Họ rất dễ nản chí, yếu đuối ngại công việc, sợ khó sợ khổ hay dễ ngả lòng và bi quan trước khó khăn. Những con người như vậy sẽ khó có thể đạt được thành công, mà sẽ chỉ mãi chìm đắm trong thất bại.

Như vậy, “Có chí thì nên” là một lời khuyên hoàn toàn đúng đắn, giá trị. Bài học được gửi gắm khiến cho mỗi người cần phải suy nghĩ về cách sống của bản thân.

Bài văn mẫu số 4

Trên hành trình của cuộc sống, con người thường phải đối mặt với nhiều thử thách. Ông cha ta đã để lại câu “Có chí thì nên” để khuyên nhủ thế hệ sau bài học về ý chí, nghị lực.

Câu tục ngữ khẳng định rằng khi có ý chí, nghị lực và sự kiên trì sẽ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp và cuộc sống. Thiếu ý chí sẽ không làm được gì, dễ chán nản, buông xuôi khi gặp khó khăn.

Điều đó đã được chứng minh từ những tấm gương từ xưa đến nay. Mạc Đĩnh Chi, gia đình nghèo khó. Ban ngày còn phải làm kiếm sống chỉ tối đến mới có thời gian học tập. Không có tiền mua dầu thắp đèn, cậu bé họ Mạc phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng rồi soi lên trang sách mà đọc chữ. Với ngọn đèn đom đóm ấy, cậu bé miệt mài học tập và đến khoa thi năm 1304 cậu đã thi đỗ trạng nguyên rồi trở thành một vị quan có tài năng lớn trong triều nhà Trần. Như vậy, đức kiên trì, chí bền bỉ chính là một yếu tố quan trọng dẫn đến thành công. Thực tế cuộc sống đã cho thấy điều đó là hoàn toàn có cơ sở .

Hoặc trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, chúng ta phải thực hiện chiến lược trường kì kháng chiến, nhất định thắng lợi. Từ cuộc kháng chiến chống quân Minh của vua tôi nhà Lê đến cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của nhân dân ta trong những năm vừa qua, tất cả đều thử thách ý chí kiên trì, bền gan vững chí của cả dân tộc. Biết bao con người đã ngã xuống với tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” để giành lại nên độc lập cho con cháu ngày hôm nay.

Không chỉ trong chiến đấu mà trong lao động, nhân dân ta cũng nhiều lần thể hiện đức kiên nhẫn đáng khâm phục. Những con đê sừng sững đôi bờ sông Cầu, sông Hồng, sông Đáy, sông Thương, chúng ta hiểu được cha ông ta đã kiên trì, bền bỉ tới mức nào để ngăn dòng nước lũ, bảo vệ mùa màng trên đồng bằng Bắc Bộ. Những hạt lúa dẻo thơm, những trái cây ngọt ngào đều được sản xuất ra từ chính công sức vất vả của người nông dân không ngại thiên tai, dịch bệnh…

Như vậy, câu tục ngữ trên hoàn toàn đúng đắn. Người không có chí hướng, không có lý tưởng, không có lòng kiên trì nhẫn lại luôn thất bại. Gần gũi với chúng ta là tấm gương sáng của Bác Hồ. Bác đã quyết chí đi tìm đường cứu nước khi còn rất trẻ. Ở nơi đất khách quê người, Bác đã làm mọi việc để kiếm sống và làm cách mạng: lúc làm phụ bếp trên tàu thuỷ, khi làm người cào tuyết giữa mùa đông lạnh giá ở Luân Đôn… Vượt qua bao khó khăn gian khổ, Bác đã tìm ra con đường cứu nước và đưa dân tộc ta, đất nước ta làm cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi, giành lại độc lập, tự do.

Trái ngược với người “Có chí thì nên” là những người “Thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Họ luôn sợ hãi thử thách, khi gặp phải khó khăn thì chỉ biết lùi bước. Những người như vậy sẽ luôn thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ác Hồ đã khuyên thanh niên:

Con người cần phải rèn luyện cho mình ý chí, nghị lực để có thể tiến bước đến thành công.

Bài văn mẫu số 5

Mỗi một câu tục ngữ trong kho tàng tục ngữ của dân tộc đều nhắn nhủ đến con người một bài học ý nghĩa về cuộc sống. Một trong số đó là đã câu tục ngữ “Có chí thì nên” – nhắn nhủ bài học về ý chí, nghị lực.

Qua câu tục ngữ trên, ông cha ta muốn khuyên nhủ con người về nghị lực trong cuộc sống. Sự kiên trì, bền bỉ chính là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công. Không chỉ riêng câu tục ngữ trên mà còn có rất nhiều câu ca dao hay lời nói cũng thể hiện ý nghĩa trên. Ví dụ như:  “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”.

Hay:

Một trong những vị tổng thống nổi tiếng của nước Mỹ, Abraham Lincoln – là một tấm gương sáng chói của sự tự lập, biết phấn đấu vươn lên để trở thành người quyền lực. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Bố mẹ của ông đều là những người nông dân thất học và mù chữ. Cuộc đời Lincoln gặp nhiều thất bại cũng như thành công. Tuy nhiên, sau mỗi thất bại ông đều lấy lại tinh thần, coi đó là nguồn động lực để tiếp tục cố gắng. Cho đến bây giờ, cái tên Abraham Lincoln luôn được xem là một nhà chính trị tiêu biểu sánh ngang với vị tổng thống khai quốc huyền thoại – George Washington. Chắc hẳn không ai là không biết đến Thomas Edison – một nhà bác học vĩ đại của nhân loại. Ông từng phải thất bại đến hơn mười nghìn lần mới có thể phát minh ra chiếc bóng đèn dây tóc. Nếu không có ước mơ thắp sáng nhân loại đủ to lớn và mạnh mẽ cùng với sự kiên trì vượt qua khó khăn, vượt qua thất bại thì có lẽ ông đã không thể thành công sau nhiều lần thất bại như vậy.

Trên hành trình chinh phục thành công, thử thách là một điều tất yếu. Giống như lời bài hát của cố nhạc sĩ Trần Lập: “Chặng đường nào trải bước trên hoa hồng. Bàn chân cũng thấm đau vì những mũi gai. Đường vinh quang đi qua muôn ngàn sóng gió. Lời hứa ghi trong tim mình. Vẫn bước đi hiên ngang đầu ngẩng cao… Ngày đó, ngày đó sẽ không xa xôi. Và chúng ta là người chiến thắng”. Chình vì vậy, con người cần có ý chí, nghị lực thì mới chinh phục được ước mơ của mình.

Như vậy, câu tục ngữ “Có chí thì nên” là hoàn toàn đúng đắn. Pauline Kael từng khẳng định rằng: “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường” – hãy luôn giữ vững ý chí nghị lực của bản thân mình.

Bài văn mẫu số 6

Kho tàng tục ngữ Việt Nam là những bài học quý giá mà ông cha ta đã để lại cho thế hệ sau. Một trong số đó là câu “Có chí thì nên” là lời nhắc nhở mỗi người việc rèn luyện ý chí trong cuộc sống.

Ý nghĩa của câu tục ngữ muốn nhắn nhủ đến con người rằng con người nếu có ý chí, nghị lực sẽ vượt qua được mọi khó khăn và tiến đến với mục tiêu mà bản thân mong muốn. Khi bạn có ý chí, nghị lực thì con người không ngại đối mặt với những thử thách trên cuộc hành trình “vô tận” để bước đến đích. Đồng thời, mỗi người cũng có được sự kiên trì, quyết tâm và nỗ lực để vươn tới những ước mơ của bản thân. Có ý chí đồng nghĩa với việc có bản lĩnh – dù khó khăn đến đâu chỉ cần tinh thần không ngại dấn thân, không lo lắng hay sợ hãi thì đều có thể vượt qua.

Những tấm gương để chứng minh cho câu tục ngữ trên có rất nhiều trong cuộc sống. Có thể kể đến ở nước ngoài, vợ chồng nhà bác học người Pháp: Pi-e Quy-ri và Ma-ri Quy-ri. Họ đã kỳ công trong bốn năm trời lọc đi lọc lại tám lần bã quặng để tìm được một phần mười gam chất phóng xạ Radium. Vậy mới hiểu được rằng muốn tìm ra một nguyên tố hóa học cũng đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì mãnh liệt như thế nào. Trở lại Việt Nam, chúng ta có thể kể đến nhà văn Mai Xuân Thưởng. Trong một vụ tai nạn giao thông, anh đã bị mất hai cánh tay nhưng vượt lên trên những mặc cảm, những khổ đau anh đã tự học rồi trở thành một nhà văn. Hay bác sĩ Lương Định Của là một nhà bác học nghiên cứu về nông nghiệp. Để tạo một giống lúa mới có năng suất cao, có khả năng chống rầy tốt, bác phải làm việc vô cùng vất vả, khó nhọc. Hằng ngày từ tờ mờ đất bác đã ra ruộng lội bì bõm nghiên cứu, thử nghiệm đến tối mịt mới về. Qua nhiều vụ lúa dày công, một giống lúa mới được tạo lập đáp ứng tốt yêu cầu của tình hình đất nước đã ghi công sự kiên nhẫn, bền bỉ của bác trong nỗ lực đem lại sự no ấm cho cuộc đời…

Bên cạnh đó, còn rất nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ, khi gặp phải thử thách thì không dám đối mặt. Điều đó chỉ khiến chúng ta chìm vào thất bại nối tiếp mà thôi. Vậy nên, đối với học sinh – chủ nhân của đất nước, điều cần làm là luôn cố gắng học tập, không ngại phải đối mặt với những khó khăn gặp phải khi giải một bài toán khó hay viết một bài văn.

Tóm lại, đây là một câu tục ngữ vô cùng đúng đắn. Lời khuyên của ông cha ta đã được chứng minh từ quá khứ đến hiện tại. Mỗi người hãy ghi nhớ điều đó để rèn luyện không ngừng, trở thành những người có ích cho xã hội.

Bài văn mẫu số 7

Ông cha ta đã để lại cho con cháu nhiều bài học quý giá. Điều đó được thể hiện qua kho tàng tục ngữ của dân tộc. Một trong số đó là câu: “Có chí thì nên”.

Câu tục ngữ nhằm nhắn nhủ con người rằng nếu có ý chí, nghị lực thì con người không ngại đối mặt với những thử thách trên cuộc hành trình “vô tận” để bước đến đích. Đồng thời, chúng ta cũng có được sự kiên trì, quyết tâm và nỗ lực để vươn tới những ước mơ của bản thân. Có ý chí đồng nghĩa với việc có bản lĩnh – dù khó khăn đến đâu chỉ cần tinh thần không ngại dấn thân, không lo lắng hay sợ hãi thì đều có thể vượt qua.

Như vậy, câu tục ngữ “Có chí thì nên” là một lời khuyên vô cùng đúng đắn. Nó mang lại cho mỗi người những bài học ý nghĩa về cuộc sống.

Bài văn mẫu số 8

Trong cuộc sống, con người thường phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách. Chính vì vậy, chúng ta cần phải rèn luyện cho bản thân bản lĩnh, ý chí vững vàng để có thể chinh phục được thành công. Cũng giống như câu tục ngữ: “Có chí thì nên” đã khuyên nhủ chúng ta.

Câu tục ngữ sử dụng mối quan hệ nhân quả thông qua từ “thì” ý chỉ nghị lực sẽ vượt qua được mọi khó khăn và tiến đến với mục tiêu mà bản thân mong muốn đạt được. Như vậy, đây là lời khuyên của ông cha ta dành cho thế hệ sau về nghị lực trong cuộc sống. Sự kiên trì, bền bỉ chính là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công.

Như vậy, có thể khẳng định lời khuyên của câu tục ngữ “Có chí thì nên” đã đem đến bài học sâu sắc cho con người. Đó là lời khuyên quý giá mà chúng ta cần phải ghi nhớ trên hành trình tìm đến thành công.

Bài văn mẫu số 9

Kho tàng tục ngữ dân tộc đã để lại nhiều bài học quý giá cho thế hệ sau. Một trong số đó là câu tục ngữ “Có chí thì nên” là lời răn dạy quý giá của ông cha ta.

Câu tục ngữ “Có chí thì nên” là lời khẳng định trong mọi hoàn cảnh, nếu con người nếu có ý chí và nghị lực sẽ vượt qua được những khó khăn để đạt mục tiêu mà bản thân đã đặt ra. Mọi nghịch cảnh trong cuộc sống sẽ đều có thể vượt qua nếu chúng ta giữ gìn được ý chí nghị lực. Cũng như chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:

Điều đó đã được chứng minh từ những nhân vật có thật trong cuộc sống. Cố tổng thống nước Mỹ, Abraham Lincoln – một tấm gương sáng chói của sự tự lập, biết phấn đấu vươn lên để trở thành người quyền lực. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Bố mẹ của ông đều là những người nông dân thất học và mù chữ. Cuộc đời Lincoln gặp nhiều thất bại cũng như thành công. Tuy nhiên, sau mỗi thất bại ông đều lấy lại tinh thần, coi đó là nguồn động lực để tiếp tục cố gắng. Cho đến bây giờ, cái tên Abraham Lincoln luôn được xem là một nhà chính trị tiêu biểu sánh ngang với vị tổng thống khai quốc huyền thoại – George Washington. Nhưng không nói ở đâu xa xôi, trên đất nước Việt Nam xinh đẹp, chúng ta có thể kể đến biết bao tấm gương về ý chí. Tuy họ chỉ là những con người bình thường, nhưng nhờ có ý chí, nghị lực mà đã trở thành những con người thành công trong cuộc sống. Những học sinh nghèo cố gắng vươn lên trong học tập. Những doanh nghiệp chủ động sáng tạo trong khó khăn…

Con đường đưa ta đến thành công luôn có rất nhiều chông gai, chướng ngại. Để tiến tới thành công, ý chí và nghị lực là những yếu tố đầu tiên giúp ta vượt qua những thử thách ấy. Nếu có ý chí, chúng ta sẽ không ngần ngại vượt qua khó khăn, rèn luyện, hoàn thiện bản thân mình để có thể theo đuổi những ước mơ, hoài bão của mình.

Còn đối với một học sinh chúng ta phải luôn cố gắng kiên trì học tập, không ngại phải đối mặt với những khó khăn gặp phải khi giải một bài toán khó hay viết một bài văn.

“Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường” (Pauline Kael). Ý chí, nghị lực là một sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Bài văn mẫu số 10

Ý chí, nghị lực là những điều cần có trong cuộc sống. Bởi vậy mà ông cha ta đã khuyên nhủ rằng: “Có chí thì nên”.

Trước hết, câu tục ngữ nói rằng con người cần có ý chí, kiên trì thì mới làm nên việc – hiểu rộng hơn là đạt được những thành công. Điều này là hoàn toàn đúng đắn, bởi cuộc sống luôn tồn tại những điều khó khăn, thử thách. Không có con đường nào đến với thành công mà bằng phẳng, nhẹ nhàng. Chính vì vậy, nhờ có ý chí kiên cường, con người sẽ không ngại phải dấn thân, tìm cách vượt qua khó khăn.

Trong cuộc sống, những tấm gương mà chúng ta có thể học hỏi. Chắc không ai là không biết đến Picasso, họa sĩ thiên tài người Tây Ba Nha. Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa. Nhưng để có được thành công, Picasso cũng cần phải nỗ lực rèn luyện không ngừng nghỉ. Hay như nhà bác học Louis Pasteur cũng vậy. Khi còn nỏ là một hoc sinh trung bình, ông chỉ là một trong sinh trung bình mà thôi nhưng ông đã vượt qua được những khó khăn đó nhờ lòng kiên trì, sự nỗ lực không ngừng để vượt qua những khó khăn. Từ đó, ông đã đạt được thành công và trở thành một nhà bác học nổi tiếng.

Chúng ta cũng có thể kể đến rất nhiều những con người bình thường trong cuộc sống. Họ chỉ là những chàng trai, cô gái đang ngày đêm cố gắng học tập, tìm tòi và rèn luyện để nâng cao kiến thức, kĩ năng của bản thân. Dù có gặp phải những thử thách, nhưng họ vẫn luôn kiên trì bước về phía trước. Câu tục ngữ trên đã giúp em có thêm động lực để học tập tốt hơn.

Như vậy, câu tục ngữ “Có chí thì nên” là một lời khuyên hoàn toàn đúng đắn. Không có thành công nào mà không trả giá bằng sự nỗ lực, kiên cường.

Bài văn mẫu số 11

Mọi con đường đều có muôn vàn khó khăn, thử thách. Bởi vậy mà mỗi người cần rèn luyện được ý chí, nghị lực để có thể vượt qua và bước đến đích thành công. Từ đó, ông cha ta đã gửi gắm lời khuyên quý giá qua câu “Có chí thì nên”.

Câu tục ngữ ngắn gọn, nhưng lại chứa đựng nhiều bài học sâu sắc. Trước tiên, “chí” có nghĩa là ý chí, còn “nên” có nghĩa là nên việc. Như vậy, câu tục ngữ muốn khẳng định rằng nếu con người có ý chí kiên cường, đủ bản lĩnh và nghị lực để vượt qua những khó khăn thì chắc chắn sẽ bước đến đích của thành công.

Advertisement

Ý chí, nghị lực là một yếu tố giúp con người có đủ bản lĩnh để vượt qua mọi nghịch cảnh. Chúng ta đã biết đến nhiều tấm gương nổi tiếng đã chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ này. Abraham Lincoln – vị tổng thống thứ 16 của nước Mỹ xuất thân trong một gia đình nghèo khổ và thiếu thốn. Cha mẹ của ông là những người thất học và mù chữ. Bản thân ông cũng không được đến trường thường xuyên. Bước vào cuộc sống, phải tự lập, ông đã trải qua quãng thời gian khó khăn. Cuộc đời của A. Lincoln từng gặp phải nhiều thất bại nhưng ông chưa bao giờ lựa chọn từ bỏ bản thân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, trên con tàu Đô đốc Latouche Tréville, Người ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Trong suốt “hành trình ngàn dặm” đó, Người đã đi qua nhiều nước phương Tây, phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Con đường ấy tuy đầy khó khăn và trắc trở. Nhưng đến cuối cùng, Bác cũng tìm đến được với ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.

Ý chí giúp con người kiên trì với mọi mục tiêu, vượt qua thử thách để chạm tay đến ước mơ. Dù trong khó khăn, nhưng chúng ta vẫn kiên cường vượt qua mọi thử thách, gian khó. Lời răn dạy của câu tục ngữ hoàn toàn đúng đắn, giúp con người sống nghị lực hơn. Đối với một học sinh, em sẽ ghi nhớ câu tục ngữ để nỗ lực trau dồi, rèn luyện bản thân để tương lai trở thành một người có ích cho xã hội.

Ý chí, nghị lực sẽ giúp bạn vượt qua mọi nghịch cảnh, để đạt được những điều mà bản thân khao khát.

Bài văn mẫu số 12

Khó khăn thử thách ý chí của con người. Bởi vậy mà ông cha ta đã có câu: “Có chí thì nên” tuy ngắn gọn nhưng lại gửi gắm một bài học quý giá và ý nghĩa đến mỗi người.

Trước tiên, “chí” có nghĩa là ý chí, còn “nên” có nghĩa là làm nên, hay thành công. Ý của câu tục ngữ muốn khẳng định rằng nếu có ý chí kiên cường, đủ bản lĩnh để vượt qua mọi thử thách thì chắc chắn sẽ bước đến đích của thành công, làm nên mọi việc.

Có thể thấy rằng, lời răn dạy trên là hoàn toàn đúng đắn. Chặng đường đến với vinh quang sẽ luôn có thử thách. Ý chí giúp con người trở nên kiên cường hơn, mạnh mẽ hơn để luôn nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, chạm đến thành công. Chúng ta có thể kể đến Abraham Lincoln – vị tổng thống thứ 16 của nước Mỹ. Ông chính là một tấm gương sáng chói của sự tự lập, biết phấn đấu vươn lên để trở thành người thành công. Xuất thân từ gia đình nghèo khổ, thiếu thốn. Cha mẹ của Lincoln là những người thất học. Bản thân ông cũng không được đến trường thường xuyên. Nhưng không vì vậy mà ông lựa chọn từ bỏ cố gắng. Năm 21 tuổi, ông phải đánh xe bò và bắt đầu cuộc đời tự lập cho chính mình. Sau một thời gian trải qua nhiều nghề nhưng thất bại, ông phát hiện ra mình thích ngành luật. Vào năm 1836, ông đậu kỳ thi trở thành luật sư và bắt đầu hành nghề. Cuộc đời của A. Lincoln từng gặp phải nhiều thất bại nhưng ông chưa bao giờ lựa chọn từ bỏ bản thân.

Một tấm gương khác rất tiêu biểu chính là Cao Bá Quát. Thuở nhỏ, ông đã nổi tiếng là một người tài hoa. Một hôm, có bà cụ hàng xóm sang nhờ ông viết giúp cho lá đơn để kêu oan. Những tưởng rằng lá đơn viết lí lẽ rõ ràng, quan sẽ xét nỗi oan cho bà cụ. Nào ngờ, chữ ông xấu quá, quan đọc không được nên thét lính đuổi bà ra khỏi huyện đường. Về nhà, bà kể lại câu chuyện khiến Cao Bá Quát vô cùng ân hận. Ông biết dù văn hay đến đâu mà chữ không ra chữ cũng chẳng ích gì. Từ đó, ông dốc hết sức luyện viết chữ sao cho đẹp. Luyện tập suốt mấy năm, chữ ông mỗi ngày một đẹp hơn. Kể từ đó, ông nổi danh khắp nước là người văn hay chữ tốt.

Đối một học sinh, “Có chí thì nên” là lời khuyên rất giá trị. Chúng ta cần phải nỗ lực không tập, không ngại tìm tòi để nâng cao hiểu biết. Mọi thử thách sẽ là bước đệm để con người tiến tới đích đến của thành công.

Xã hội ngày càng phát triển, con người phải nỗ lực mới có thể hoàn thành được mục tiêu, ước mơ của chính mình. Và câu “Có chí thì nên” vô cùng giá trị, ý nghĩa đối với mỗi người.

Mở bài gián tiếp chứng minh tính đúng đắn Có chí thì nên Mở bài gián tiếp – Mẫu 1

Trong cuộc sống, con người thường phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách. Chính vì vậy, chúng ta cần phải rèn luyện cho bản thân bản lĩnh, ý chí vững vàng để có thể chinh phục được thành công. Cũng giống như câu tục ngữ: “Có chí thì nên” đã khuyên nhủ chúng ta.

Mở bài gián tiếp – Mẫu 2

Mỗi một câu tục ngữ trong kho tàng tục ngữ của dân tộc đều nhắn nhủ đến con người một bài học ý nghĩa về cuộc sống. Một trong số đó là đã câu tục ngữ “Có chí thì nên” đã nhắn nhủ bài học về ý chí, nghị lực.

Mở bài gián tiếp – Mẫu 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:

Ý chí, nghị lực có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Bởi vậy mà ông cha ta cũng đã khuyên nhủ con cháu rằng “Có chí thì nên”. Câu tục ngữ chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, to lớn.

Mở bài gián tiếp – Mẫu 4

Có ai đó đã từng khẳng định rằng “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường”. Quả vậy, nghị lực và ý chí là một điều vô cùng cần thiết trong cuộc sống. Cũng đồng quan điểm trên, ông cha ta đã gửi gắm lời khuyên đến con cháu qua câu tục ngữ: “Có chí thì nên”.

Mở bài gián tiếp – Mẫu 5

Nguyễn Bá Học từng khẳng định: “ Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Câu nói đã nhắc nhở con người bài học về ý chí, nghị lực. Và ông cha ta cũng đã có lời khuyên nhủ con cháu: “Có chí thì nên” rất ngắn gọn, mà sâu sắc.

Mở bài gián tiếp – Mẫu 6

Mọi con đường đều có muôn vàn khó khăn, thử thách. Bởi vậy mà mỗi người cần rèn luyện được ý chí, nghị lực để có thể vượt qua và bước đến đích thành công. Từ đó, ông cha ta đã gửi gắm lời khuyên quý giá qua câu “Có chí thì nên”.

Kết bài gián tiếp chứng minh tính đúng đắn Có chí thì nên Kết bài gián tiếp – Mẫu 1

“Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường” ( Pauline Kael). Ý chí, nghị lực là một sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Và câu tục ngữ “Có chí thì nên” đã để lại một lời khuyên giá trị, sau sắc.

Kết bài gián tiếp – Mẫu 2

Có thể nói rằng, câu tục ngữ “Có chí thì nên” đã đem đến lời khuyên quý giá cho mỗi người. Pauline Kael từng khẳng định rằng: “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường” – hãy luôn giữ cho mình một ý chí kiên cường để vượt qua mọi giới hạn, bước đến thành công.

Kết bài gián tiếp – Mẫu 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh ác Hồ đã khuyên thanh niên:

Con người cần phải rèn luyện cho mình ý chí, nghị lực để có thể tiến bước đến thành công.

Kết bài gián tiếp – Mẫu 4

Như vậy, “Có chí thì nên” là một lời khuyên hoàn toàn đúng đắn, giá trị. Bài học được gửi gắm khiến cho mỗi người cần phải suy nghĩ về cách sống của bản thân. Một lời khuyên ngắn gọn, nhưng sâu sắc và ý nghĩa.

Kết bài gián tiếp – Mẫu 5

Tóm lại, “Có chì thì nên” là một câu tục ngữ vô cùng đúng đắn. Lời khuyên của ông cha ta đã được chứng minh từ quá khứ đến hiện tại. Mỗi người hãy ghi nhớ điều đó để rèn luyện không ngừng, trở thành những người có ích cho xã hội.

Kết bài gián tiếp – Mẫu 6

Ý chí, nghị lực sẽ giúp bạn vượt qua mọi nghịch cảnh, để đạt được những điều mà bản thân khao khát.

Văn Mẫu Lớp 9: Đóng Vai Người Cháu Kể Lại Câu Chuyện Bếp Lửa Dàn Ý & 11 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

I – Mở bài:

Giới thiệu về mình (Nhân vật trữ tình trong bài thơ)

II – Thân bài:

Nhân vật trữ tình kể theo mạch kể riêng của mình nhưng đảm bảo được mạch cảm xúc của bài thơ là:

Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu.Từ kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao qúy của bà. Cuối cùng người cháu muốn gửi niềm thương, nhớ mong về bà khi ở xa bà… Ví dụ hình thành mạch kể riêng:

* Cách 1:

1 – Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.

2 – Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

3 – Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.

4 – Nỗi niềm của cháu khi đã trưởng thành, đi xa về bà

* Cách 2:

1 – Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên trong tâm trí tôi, quá khứ hiện về như một cuộn phim quay chậm.

2 – Tuổi thơ của tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội.

3 – Tuổi thơ của tôi với bao niềm vui sướng, hạnh phúc được ở bên bà.

4 – Đóng vai người cháu, kể lại nội dung bài thơ Bếp Lửa – Bằng Việt. Yêu cầu có sử dụng yếu tố nghị luận, độc thoại nội tâm – Từ kỷ niệm tuổi thơ ở bên bà, tôi lại nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa.

5 – Giờ đây tôi đã trưởng thành, nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa.

III – Kết bài:

Niềm mong ước, suy nghĩ của nhân vật trữ tình từ hình ảnh bà và bếp lửa

Hôm nay, tôi bắt gặp hình ảnh bếp lửa, thật khó để diễn tả những cảm xúc, trạng thái và ý thức của tôi lúc bấy giờ. Tôi chỉ nhớ rằng mình đã đứng ngây người trước bếp lửa đó và hình ảnh người bà thân thương nhóm bếp lửa cho tôi lại sống lại trong tâm hồn.

Bếp lửa có từ bao giờ, tôi cũng chẳng thể biết rõ, chỉ biết rằng từ khi tôi sinh ra đã quen thuộc với việc nhóm bếp lửa của bà. Ngày nắng to cũng như ngày mưa bão, chẳng ngày nào là bà không nhóm bếp, năm tôi bốn tuổi mùi khói đã trở nên quen thuộc, ám vào quần áo và cả tâm hồn. Giữa những năm 1945 sao mà cái đói lại đáng sợ đến thế, bố mẹ vất vả mưu sinh chỉ còn lại hai bà cháu nương tựa nhau mà sống. Khói bếp khi ấy làm nhèm mắt tôi nhưng bây giờ tôi lại bật khóc vì không được ngửi làn khói ấy.

Tám năm ròng, tôi cùng bà nhóm lửa, ngồi cạnh bà bên bếp lửa bà hay kể tôi nghe chuyện ngày còn ở Huế. Đã lâu rồi tôi không nghe thấy tiếng tu hú, nhớ về kỉ niệm sống với bà là quãng đời tuyệt đẹp, bà dạy tôi làm, bà bảo tôi học, bà chăm tôi ăn từng miếng ăn, giấc ngủ, thương bà khó nhọc tần tảo sớm hôm tôi chỉ biết chăm ngoan nghe lời. Ngày xưa khổ lắm ai ơi, giặc tràn về đốt hết mái nhà tranh, khó khăn lắm mới dựng lại được, để cho bố mẹ yên tâm công tác bà vẫn dặn tôi không được nói về chuyện đó. Ngày tháng cứ thế trôi qua, sáng nào bà cũng nhóm bếp, bà nhóm lên ngọn lửa yêu thương, niềm tin và hy vọng về tương lai tươi sáng, ấm no, sum vầy. Nhờ có bếp lửa của bà tôi thấu hiểu được nỗi lận đận nắng mưa, dù thời thế có thay đổi trong suốt mấy chục năm bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm bếp lửa. Từ bếp lửa ấy có xôi có gạo, có khoai sắn ngọt bùi và có cả tâm tình tuổi nhỏ. Bếp lửa của bà kì lạ và thiêng liêng lắm, để bây giờ khi rời xa quê hương, tôi ở nơi miền đất mới nhiều điều tươi sáng nhưng vẫn không thể quên bếp lửa và bà.

Trưởng thành rồi ta lại muốn trở nên bé lại, được trở về với những đơn sơ, ngây dại. Sẽ chẳng có gì có thể nói hết được tình yêu của tôi với bà và với quê hương Việt Nam.

Mỗi lần đi ngang qua những cánh đồng của đất nước Nga mênh mông, rộng lớn, tôi lại nhớ đến quê hương Việt Nam thân thương của tôi. Nhất là vào những ngày tuyết rơi trắng xóa, thời tiết lạnh thấu xương, tôi run rẩy trong chiếc áo dày cộm ngồi bên lò sưởi. Nhưng lúc đó sao tôi lại thấy lò sưởi sao quen thuộc đến thế! Ngọn lửa ấm áp làm tôi nhớ đến cái bếp lửa của bà tôi quá!

Tôi sinh ra vào thời chiến tranh loạn lạc, cái thời kì mà đất nước bị chia cắt làm hai, cái thời kì mà đất nước bị giày xéo bởi gót giày của giặc. Gia đình tôi có một truyền thống yêu nước nồng nàn, nên từ khi tôi còn bé, bố mẹ tôi đã luôn rời xa tôi để đi phục vụ Tổ quốc ở nơi chiến khu gian nan, hiểm trở. Vì vậy tôi đã sống với bà từ những ngày thơ ấu. Tôi có những kỉ niệm không bao giờ quên với bà, đặc biệt là hình ảnh bà luôn gắn với cái bếp lửa ấp iu nồng đượm ấy. Bà thức dậy từ sớm tinh mơ để nhóm cái bếp lửa chờn vờn sương sớm, để nhóm lên cái ngọn lửa bởi tình bà cháu ấm áp, nồng đượm. Nghĩ về bếp lửa tôi lại thương bà tha thiết, sự tần tảo, vất vả của bà sao tôi có thể quên.

Còn nhớ lại cái năm tôi vừa mới lên bốn tuổi, năm ấy là năm 1945 – cái năm đói mòn đói mỏi. Tôi đã chứng kiến cái nạn đói len lỏi vào trong từng gia đình, gây nên cái chết thương tâm của hai triệu dân mình, cái chết như để thể hiện cho tội ác của chiến tranh, một thời kì đau khổ của dân tộc Việt Nam ta. Bố tôi thì đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Còn tôi thì vẫn ở với bà, bà nhóm bếp để khói xua tan cái mùi chết chóc. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay! Cay vì mùi khói! Cay vì một thời kì bi thương, đói khổ, chết chóc của dân tộc ta!

Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm bếp, bà bao bọc, che chở tôi, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Tôi lớn lên trong sự dạy dỗ, bảo ban của bà. Nhớ đến mùa hè năm ấy, tu hú kêu trên những cánh đồng xa, tiếng tu hú nghe sao mà tha thiết thế! Tiếng tu hú như khơi dậy những hoài niệm, những nhớ nhung mong nhớ trong tôi. Bà hay kể cho tôi nghe những ngày ở Huế, tôi luôn hào hứng, thích thú những câu chuyện của bà, từng giọng nói ấm áp của bà chạm đến trái tim tôi, cho tôi biết thương cảm, yêu thương người khác hơn. Nghĩ đến đây tôi liền trách thầm những con tu hú sao không ở cùng bà mà lại kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Cuộc sống tưởng như yên bình trôi qua trong mắt đứa trẻ như tôi, nhưng không ngờ năm đó là năm giặc càn quét dữ dội, chúng để lại một kí ức in mãi trong tâm trí tôi. Chúng đốt làng cháy tàn cháy rụi, hình ảnh làng xóm lại trở về lầm lụi, may thay bà tôi sống có nghĩa có tình, được hàng xóm đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh trên đống tro tàn. Lúc đó tôi sợ đến òa khóc, nói với bà rằng:” Cháu muốn viết thư cho bố mẹ để bố về nhà chăm sóc, bảo vệ bà cháu mình “. Thế mà bà vẫn vững lòng, vẫn còn niềm tin vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Bà dặn tôi đinh ninh rằng:” Bố ở chiến khu, vẫn còn việc bố, mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Rồi sớm rồi chiều bà lại nhóm bếp lửa lên, nhóm lên tình bà thắm thiết, nhóm lên niềm tin dai dẳng của bà vào cuộc sống, vào tương lai của đất nước.

Ngày qua ngày bếp lửa vẫn được nhóm lên, nhóm lên niềm yêu thương ngọt bùi của khoai sắn, nhóm lên hương vị dẻo thơm của nồi xôi gạo mới sẻ chung vui, nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Ôi thật kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, dù nắng hay mưa, đói khát hay chiến tranh thì nó vẫn cháy lên. Nó chưa bao giờ tắt vì bất cứ lý do gì.

Bếp lửa thật thiêng liêng và mầu nhiệm, nó gắn liền với hình ảnh người bà đáng kính của tôi, nó cũng là hình ảnh cho hi vọng niềm chiến thắng của dân tộc tôi, cháy lên không bao giờ bị dập tắt, vẫn ấp iu nồng đượm, vẫn ấm áp đầy yêu thương. Giờ tôi đã đi xa, tiếp nhận được tri thức của nhân loại. Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Nhưng không đâu bằng ngọn lửa của bà tôi, không niềm vui nào bằng những ngày ở cùng bà, bà ơi!

Nay tôi đang ở nơi đất khách quê người, nơi xa lạ, không người thân thiết làm tôi nhớ Tổ quốc, nhớ bà tha thiết. Ánh lửa lò sưởi bập bùng ngay trước mắt, nhưng không có mùi khói cay của bếp lửa bà tôi. Ôi bà ơi, con nhớ mùi khói cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà cháu mình, cháu chỉ muốn nhắc bà rằng : “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”.

Bao nhiêu năm xa quê hương, xa bà, xa miền quê yêu dấu nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những thánh năm tuổi thơ, có bà bên bếp lửa ấm. Dường như cái rét cắt da thịt của mùa đông nước Nga khiến tôi hồi tưởng về ký ức khi ấy.

Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, đất nước đang lâm vào một nạn đói khủng khiếp, khi ấy cuộc sống khó khăn rất nhiều. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm tiền, tôi được bà chăm sóc. Tôi còn nhớ khi ấy nhà nhà ai cũng đói, cả người lẫn ngựa đều gầy. Người chết vì đói cũng không ít, thế nên người dân phải đốt rơm để trừ tử khí, đốt nhiều đến nỗi khói hun nhèm mắt, tới giờ vẫn còn cay. Dù vậy tôi cùng bà cũng không bỏ cuộc, chúng tôi ngồi bên ngọn lửa như có một hy vọng, dù không lớn nhưng vẫn sống mãnh liệt.

Bố mẹ tôi đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, giao tôi cho bà giữ. Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa, dù có khổ đến mấy, bà vẫn ngày ngày thắp lên ngọn lửa như thấp lên mỗi niềm hy vọng. Tôi ngồi trông những đàn chim tu hú hót tha thiết ngoài cánh đồng, tôi chỉ muốn nói rằng: “Tu hú ơi sao chẳng ở cùng bà?”. Tôi từ nhỏ đã quen cái hơi thân thuộc của bà. Cùng bà dậy sớm để cùng thắp lên “hy vọng” dần dần đã trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.

Tôi vẫn nhớ những câu chuyện khi ấy của bà. Bà thường hay kể những ngày ở Huế cho tôi nghe, dù bà có kể bao nhiêu tôi vẫn không thấy chán. Được áp đầu nằm lên đùi bà, được những ngón tay ấm áp của bà luồn qua khe tóc, nằm nghe những câu chuyện cùng với hơi ấm của bếp lửa và tất nhiên là với bà cũng đủ làm cho tôi hạnh phúc.

Bố mẹ đi xa, bà tôi thay bố mẹ dạy tôi nhiều việc, bà lo cho tôi ăn học, lo cho tôi ăn uống, chăm sóc tôi, khuyên răn tôi những việc sai. Khi lớn lên tôi mới nhận ra, bà thương tôi, lo cho tôi không có đủ tình thương, bà cố gắng đảm nhiệm là một người bố, người mẹ và là một người thầy để lo cho tôi. Dù khó khăn bà cũng chỉ để tôi thấy một nụ cười hiền hòa. Nhớ đến đây, hai giọt lệ lăn dài trên má tôi…

Bình yên là thế cho đến khi…. Năm đó, giặc đốt làng cháy rụi. Tôi cùng bà đi trốn. Khi mọi việc kết thúc, bà nắm chặt tay tôi đi từng bước run rẩy vào làng, mọi thứ trước mắt tôi thật hoang tàn. Tôi có thể nghe được cả tiếng khóc than của người dân. Chúng tôi về tới ngôi nhà tranh của mình, nó đã bị đổ xuống nhưng may là các bác hàng xóm đã giúp chúng tôi dựng lại được. Đêm ấy, ngồi bên bà, chợt bà bảo tôi: “Mày có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo là chúng ta vẫn bình yên. Đừng để bố bây lo.”

Chính là thế, dù có ra sao bà tôi vẫn gắng gượng. Người phụ nữ ấy là niềm tự hào to lớn của tôi, bà không bao giờ than vãn, hay tỏ ra mệt mỏi, tôi biết bà đang cố gắng giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm dù chiều, dù đã qua mấy chục năm, bà vẫn luôn thắp lên bếp lửa ấp iu ấy. Ngọn lửa được bà dành chọn tất cả niềm thương yêu của mình. Chính bếp lửa ấy là nơi có khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo sẻ chia và những tâm tình tuổi thơ. Tôi hiểu lòng bà, vì sao bà lại nhóm lửa, tôi hiểu rằng bà đang hy vọng, ngọn lửa bà thắp như là một niềm tin đất nước sẽ chiến thắng, sẽ bình yên. Bà dành cả đời mình chỉ để hy vọng niềm tin hạnh phúc của bà có thể thành hiện thực.

Dù tôi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không thể ở cùng bà, dù tôi đang thấy những điều mới lạ. Tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân thường cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp lên ngọn lửa ấm áp trong lòng tôi. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.”

Có một nơi là nơi xuất phát, cũng là nơi trở về và là điểm tựa vững chắc cho con người trong hành trình sống. Nơi ấy là nhà. Nơi ấy với tôi còn có người bà kính yêu. Và để rồi, khi trưởng thành, khi đang sinh sống và làm việc tại Liên Xô, tôi lại bồi hồi, xốn xang nhớ về người bà kính yêu gắn với hình ảnh bếp lửa….

Tôi lại nhớ về hình ảnh ngọn lửa hồng ấy…Ngọn lửa có lẽ là không lạ gì trong đời sống của mỗi chúng ta. Một ngọn lửa được bà nhen lên mỗi buổi sáng sớm. Một ngọn lửa được đôi bàn tay gầy guộc của bà ấp iu, che chở để chúng có thể cháy lên và tỏa sáng…

Hình như cái ngọn lửa thân thương ấy, tôi đã quen mùi khói từ năm tôi lên bốn. Năm đó gắn với nạn đói của dân tộc- năm 1945 với hình ảnh của những người chết vì đói nằm như ngả rạ. Bố tôi phải làm việc vất vả. Đến bây giờ tôi vẫn còn cay sống mũi mỗi khi nhớ lại về những năm đó…

Rồi tám năm ròng, tôi đã bên bà, cùng bà nhóm lên những ngọn lửa hồng. Khi con tu hú kêu trên những cánh đồng xa báo hiệu một mùa hè lại về, bà ơi, bà có còn nhớ không bà? Tôi còn nhớ, khi tu hú kêu, lại gắn với những câu chuyện bà hay kể về những ngày ở xứ Huế. Tiếng tu hú tha thiết kêu mãi không ngừng… Đó là những ngày tháng chiến tranh, bố mẹ tôi bận công tác ở xa nên không có nhà. Tôi ở cùng bà, được bà dạy làm, được bà dạy học. Bà đã thay cha mẹ tôi nuôi tôi khôn lớn và trưởng thành.

Rồi năm đốt làng cháy tàn cháy rụi, hàng xóm bốn bên trở về trong cảnh lầm lụi. Bằng tình cảm làng xóm láng giềng. mọi người đã giúp bà dựng lại túp lều tranh. Vẫn vững lòng, và thêm cả sự lo lắng cho bố mẹ tôi, bà liền dặn tôi rằng:

– Bố ở chiến khu, bố vẫn còn nhiều việc lắm. Mày có viết thư, không được kể này kể nọ nghe chưa, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ an tâm công tác!

Rồi hàng ngày, cứ sớm rồi lại chiều, bà vẫn tiếp tục với công việc hàng ngày của mình là nhóm lửa. Một ngọn lửa chứa tình yêu thương của bà luôn ủ ấp nơi đáy lòng, một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng của bà…

Đời bà luôn vất vả như thế. Vất vả nuôi tôi khôn lớn và ngày trước là vất vả nuôi bố tôi. Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm những bếp lửa ấp iu nồng đượm, nhóm cả những nồi khoai sắn có cả những yêu thương của bà để xây đắp cho tôi bao ước mơ, để giờ tôi có thể du học tại đất nước Liên Xô. Bếp lửa của bà còn nhóm lên cả nghĩa tình với xóm làng. Ôi bếp lửa của bà, tuy giản dị mà lại rất đỗi thiêng liêng!

Giờ đây, tôi đã đi xa, cách bà đến nửa vòng Trái Đất. Một cuộc sống mới đã mở ra trước mắt tôi. Nơi ấy, có những ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà và có niềm vui trăm ngả. Nhưng tôi vẫn chẳng thể nào tự quên nhắc nhở bản thân rằng “ Sớm mai này, bà đã nhóm bếp lên chưa?”

Bà ơi! Cháu yêu bà và cũng thương bà biết bao. Cuộc sống hiện đại dễ làm lòng người đổi thay nhưng hình ảnh của một người bà ngày ngày nhóm lên những ngọn lửa yêu thương sẽ mãi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí cháu. Cuộc sống ở phương xa này, dù vui thật nhưng khi niềm vui tàn đi, nhất là những khi cháu ở một mình, cháu lại nghĩ về bà nơi mái nhà tranh, nơi bà kể chuyện cháu nghe, nơi bà dạy cháu học, nơi hình thành con người cháu, nơi có ngọn lửa hồng thắp lên trong cháu những ước mơ.

Tôi vẫn nhớ nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết:

Dường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân thương nhất. Vượt qua bao sự thăng trầm trong cuộc đời và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có lẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng, mỗi khi nhìn làn khói của những ngôi nhà phía xa kia, cả một trời nhớ thương trong tôi lại ùa về, về bà về bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…

Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống, nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm. Trong những năm tháng cơ cực ấy, để giành giật lấy sự sống ngày một thoi thóp, bố tôi phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm hơi mà sống qua ngày. Cái đói nghèo cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi ám ảnh trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó. Chính mùi khói bếp của bà đã mang đến cho tôi những hơi ấm, sự an lòng và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong suốt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua, mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi tưởng lại. Những năm tháng sau đó khi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng, lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng dáng tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng thơ bé ấy, bên cạnh bà cháu tôi, bên cạnh bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi chẳng thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như khao khát được che chở ấp iu đến vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú bất hạnh biết bao nhiêu tôi càng biết ơn và trân trọng những ngày tháng tuổi thơ hạnh phúc được bà chăm chút, bao bọc bấy nhiêu. Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về cuộc đời bà những tháng năm còn ở Huế. Một cuộc đời đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hi vọng, ước mong về một tươi lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp, bà chăm tôi từng bữa ăn giấc ngủ và là người thầy đầu tiên dạy tôi những bài học quý giá trong cuộc đời. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một điểm tựa vững chắc chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời. Thứ ánh lửa ấm áp nồng nàn ấy mang đến cho tầm hồn tôi một sự an ủi trong những ngày tháng sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như điểm tựa tinh thần cho tôi vững bước. Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. Đến một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt dội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược nỗi đau và nước mắt vào trong. Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn, nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi luyện trong những năm tháng bể dâu của cuộc đời không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi. Bà cứng rắn dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cơ cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong đếm được với những gian khó, nhọc nhằn và nỗi nhớ thương con nơi chiến trường đỏ lửa đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó, nhờ vào tình làng nghĩa xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm lên trong tôi ý chí và nghị lực sống trong cuộc đời này. Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế tuổi thơ tôi được bà che chở qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ, trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.

Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi đến với những chân trời xa nhưng chẳng thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả cuộc đời mình để biết ơn và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một cuộc đời mới. Nếu những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa cuộc đời này cho riêng tôi. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà, là mùi nếp mùi sắn thơm hương, của quê hương, và luôn là nơi mà tôi thuộc về…

Tôi đang du học ở một nước xa xôi, cách Việt Nam hàng ngàn kilomet, nơi đất nước lạnh giá bỗng thèm hơi ấm từ bếp lửa của người bà thân yêu, ngọn lửa mà bà thắp lên mỗi sáng tinh mơ.

Tuổi thơ tôi gắn bó với bà, ngọn lửa chờn vờn trong sớm mai, ngọn lửa gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam cần cù, chịu khó và giàu đức tính hi sinh. Bà tôi là một người phụ nữ như vậy, kí ức về bà gắn với kỉ niệm tuổi thơ nạn đói năm 1945 hoành hành khiến hàng triệu người chết, gia đình tôi cũng vậy phải cố gắng đi tìm miếng ăn để vượt qua thời khắc đen tối đó, giờ nghĩ lại mà sống mũi còn cay cay.

Tôi có nhiều kỉ niệm nhớ mãi với người bà, thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp mẹ và cha tôi phải đi công tác ở chiến khu, bà ở nhà nuôi nấng, dạy dỗ tôi trưởng thành, bà đun lửa lên sưởi ấm cho tôi mỗi khi trời trở rét. Bà thương yêu bao bọc che chở giúp cha mẹ an lòng công tác xa nhà.

Một kỉ niệm đến tận giờ tôi vẫn không quên đó là lần giặc càn tàn phá xóm làng, ngọn lửa thiêu rụi tài sản mọi người trong làng, khi giặc đi qua tất cả không còn gì. Trong hoàn cảnh như vậy bà vẫn dặn tôi không được nói với cha mẹ để họ yên tâm công tác. Bà không chỉ cần cù, giàu tình yêu thương mà còn giàu đức hi sinh làm hậu phương vững chắc cho cha mẹ yên lòng, với tôi bà là người mẹ Việt Nam trung hậu, đảm đang, bất khuất.

Ngọn lửa của bà không chỉ dùng để sưởi ấm mà chứa đựng niềm yêu thương luôn cháy trong lòng tôi, bà là đại diện thế hệ cha anh giữ lửa truyền lửa đến thế hệ tương lai, hình ảnh bếp lửa giản dị quen thuộc như chứa đựng sự cao quý thiêng liêng đến kỳ lạ.

Trải qua thời gian, tôi đã trưởng thành, tìm đến với những con đường, chân trời mới, cuộc sống mới đã có “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng trong lòng tôi vẫn luôn hiện hữu câu hỏi “sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa” ? ngọn lửa của bà chính là kỉ niệm tuổi thơ, tình bà cháu đã nuôi nấng tôi trưởng thành, hình ảnh đó sẽ cháy mãi trong lòng tôi – ngọn lửa yêu thương của gia đình, yêu quê hương đất nước.

Đó là những vần thơ mà tôi muốn tặng cho người bà kính yêu của mình. Tôi đang là sinh viên ngành Luật ở nước Nga. Bây giờ đã là tháng 9, trời bắt đầu trở lạnh làm tôi nhớ những kí ức về bà, bếp lửa mà ngày xưa tôi cùng bà nhóm bếp, cũng là một phần đã tạo nên tuổi thơ của tôi.

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra khủng khiếp đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.

Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công tác kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy. Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, chăm sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .

Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không nghỉ ngơi mà cũng không than phiền hay trách móc gì cả. Cuộc đời bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rảnh rỗi bà còn thường kể chuyện tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: “Con phải ráng học để xây dựng đất nước, nếu không thì đất nước mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.

Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm, từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà khó nhọc.

Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi, và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng giúp bà đỡ được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối tay chân bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.

Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà. Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng cuộc đời, tảo tần chăm sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn biết ơn vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong cuộc đời bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.

Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương dành cho tôi và mọi người. Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người.

Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với câu hỏi: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao ấm áp đến như vậy! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà chăm sóc yêu thương. Mỗi con người ai cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì thế mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày hôm nay.

Trong mỗi chúng ta, có lẽ kỉ niệm tuổi ấu thơ bao giờ cũng là những trang kí ức sâu đậm nhất. đó có thể là kỉ niệm về làng quê thân thương, hay cũng có thể là kỉ niệm về tuổi học trò. Những kỉ niệm ấy như ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta, khiến ta khó lòng mà quên được. Đối với tôi cũng vậy!

Tuổi thơ về người bà thân thương gắn liền với bóng đen ghê rợn của nạn đói năm Ất Dậu, đó trở thành dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng tôi và trong nỗi nhớ ấy, lòng tôi đã dấy lên một niềm xúc động khi những dòng kí ức ấy ùa về.

Đối với bản thân tôi “bếp lửa chờn vờn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng lượm” đã trở thành một hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong gia đình nông thôn chúng tôi. Bếp lửa là nơi bắt đầu nỗi nhớ da diết của tôi. Trong dòng cảm xúc dạt dào ấy, bếp lửa đã trở thành một kỉ niệm khó phai. Bếp lửa thể hiện sự tần tảo của bà mà còn thắp lên tình thương yêu sâu sắc của hai bà cháu.

Từ năm lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói mà bà nhóm lên. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi và hình ảnh bếp lửa đã trở nên không thể thiếu trong đời tôi. Để bây giờ nhớ lại tôi lại cảm thấy cay xè sống mũi. Bếp lửa thiêng liêng trở thành một dấu ấn, một nỗi nhớ, nỗi ám ảnh sâu sắc trong cuộc đời tôi.

Tám năm! một quãng thời gian không dài cũng không ngắn nhưng đủ để nhen nhóm trong lòng tôi một ngọn lửa tình yêu cháy bỏng dành cho người bà. Bếp lửa của quê hương, của sự yêu thương gợi lên tiếng chim tú hú như giục giã nghe sao mà da diết quá!

Trong khoảng thời gian chiến tranh, tôi sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. Bếp lửa hiện lên như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự đùm bọc châm chút của bà. Bên bếp lửa, bà kể tôi nghe những câu chuyện còn ở Huế, bà dạy, bà bảo, bà chăm chút tôi.

Giặc đi, ai ai cũng bị mất mát rất nhiều, tuy nhiên mọi người vẫn giúp đỡ nhau dựng cho nhau những túp lều. Bà âm thầm chịu đựng để bố mẹ tôi yên tâm công tác nơi phương xa. Vất vả chồng lên vất vả, gian truân nối tiếp gian truân, nhưng bà vẫn dặn tôi đinh ninh “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể nọ, cứ bảo nhà vẫn bình yên. “Ôi chao! khi nghĩ lại lời dặn ấy thật mộc mạc, bình dị nhưng lại chất chứa trong ấy biết bao tâm tình, biết bao đau khổ cuộc đời bà

Khi nhớ lại, nỗi kỉ niệm ấy lại dâng lên thêm. Tôi lại suy ngẫm về cuộc đời tần tảo của bà, cuộc đời luôn cặm cụi làm việc. Bà vẫn luôn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa và công việc ấy kéo dài suốt cuộc đời bà, bà nhóm lửa cho hôm nay, cho ngày mai và đến mãi mai sau,… Bà nấu cho tôi những bữa ăn trông thật đơn giản nhưng lại chất chứa trong đó tình cảm sâu đậm của bà. Và chính bà là người khơi dậy ước mơ, khát vọng tuổi thơ của tôi.

Ngọn lửa mà bà nhen nhóm cả một đời người là ngọn lửa thiêng liêng và kì lạ. Là kỉ niệm nâng bước tôi trong cuộc đời dài. Bà tôi không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin cho bao thế hệ. Bếp lửa có lẽ trở thành một biểu tượng của sự sống của niềm yêu thương và cội nguồn, gia đình, đất nước, là sự sống bền bỉ của con người

Không chỉ như vậy, hiện diện cùng bếp lửa là người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bà là người giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu nước. Giữa tro tàn, mất mát đau thương, bà vẫn miệt mài nhóm lửa. Bếp lửa mà bà vẫn thường nhóm sớm sớm chiều chiều đã dâng lên thành ngọn lửa trong lòng bà.

Những nỗi nhớ về bà khép lại trông sự buồn man mác của tôi. Tôi rất nhớ, rất nhớ về tình yêu thương của bà, bếp lửa thiêng liêng và quê hương nồng nàn, tha thiết của tôi. Vì vậy, tôi càng trân trọng những tình cảm tôi đang có. Bếp lửa như lời nhắc nhở tôi về cội nguồn, nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng trong cuộc sống!

Đã rất nhiều năm trôi qua, tôi ngày nào còn là một đứa trẻ giờ đây đã trưởng thành và đang là sinh viên ngành Luật ở Nga. Khí trời dạo này se se lạnh, vì thế thoải mái nhất là khi ngồi bên bếp lửa ấm áp, sau một ngày dài. Bếp lửa gợi cho tôi về rất nhiều kỉ niệm, về những ngày thơ ấu, những năm chiến tranh được ở cùng với bà – người đã bên cạnh tôi suốt nhiều năm, người mà tôi kính trọng nhất.

Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn nỗi nhớ sâu sắc trong tôi. Một buổi sáng sớm thời tiết trở mùa, cái khí lạnh của miền Bắc lùa vào trong gian nhà nhỏ. Và cũng vào lúc ấy, bà thức dậy nhóm bếp, một bếp lửa chứa hơi ấm và tình yêu thương của bà dành cho đứa cháu. Thời ấu thơ bên bà, có nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.

Advertisement

Tôi ở với bà có lẽ từ rất bé, đến nỗi tôi chẳng nhớ rõ bắt đầu từ lúc nào. Chỉ nhớ là khi tôi lên bốn, mùi khói bếp đã trở nên quen thuộc. Đó là năm sau giải phóng, là năm mà nạn đói hoành hành, cướp đi sinh mạng của rất nhiều người dân. Còn đối với tôi, đó là khoảng thời gian rất khó khăn. Cái ăn cái mặc không đủ, sống trong sự lo sợ, phải dành dụm từng miếng ăn. Bố tôi phải đi đánh xe cùng với con ngựa gầy nhom vì đói. Tiền chẳng được bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để lây lất từng ngày. Những ngày tháng ấy, bếp lửa đối với tôi như một nỗi ám ảnh, khói hun nhèm cả mắt, cùng ngồi với bà bên bếp lửa. Đến bây giờ khi nhớ lại, sống mũi tôi bỗng cay cay, những kí ức đó vừa là kỉ niệm nhưng cũng làm tôi nghẹn lòng khi nghĩ về.

Tám năm có lẽ không phải là một khoảng thời gian quá dài, nhưng cũng quá đủ đối với tôi để bếp lửa trở thành hình ảnh gắn liền với tuổi thơ bên bà, cùng bà nhóm bếp. Tôi vẫn còn nhớ tiếng chim tu hú kêu trên những cánh đồng, tiếng kêu vang vảng, nghe sao tha thiết. Những lúc ấy, bà kể tôi nghe chuyện những ngày còn ở Huế, rằng bà từng sống thế nào, đến giờ tôi vẫn còn nhớ.

Mẹ cùng cha đi công tác bận không về, vì vậy mà suốt thời gian đó tôi ở với bà, sống trong sự cưu mang và dạy dỗ của bà. Bà dạy tôi học, kể chuyện cho tôi nghe, những lời bà dạy rất bổ ích, ý nghĩa. Sống với bà nên từ bé tôi đã sớm có ý thức tự lập, sớm biết lo toan, giúp đỡ bà. Tôi thương bà lắm, trước đây vất vả nuôi cha tôi khôn lớn, giờ lại phải chăm cháu dù tuổi khá cao, vậy mà bà vẫn rất yêu thương tôi.

Giặc Pháp đi rồi bọn Mỹ lại đến, bao khốn khổ cứ kéo đến. Bọn ác nhân ấy đốt làng cháy tàn cháy lụi. Chúng tôi mất nhà cửa, phải đỡ đần nhau dựng lain túp lều tranh. Tôi lúc ấy đã đủ lớn để thấu nỗi cơ cực của bà. Vất vả là thế nhưng bà vẫn luôn dặn tôi rằng:”Bố ở chiến khu, bố còn việc bố. Mày viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên”Lúc ấy tôi vẫn từng hỏi rằng tại sao phải làm vậy. Bởi lẽ tôi lúc ấy đã rất mệt mỏi với cuộc sống này, muốn được kể hết cho bố nghe, nói ra nỗi lòng của mình rằng tôi đã rất vất vả, mà tại sao bố vẫn không biết. Giờ nghĩ lại, sao khi ấy tôi ích kỉ thế, không nghĩ rằng bố mẹ còn phải lo việc chiến khu căng thẳng. Quả thật, lời bà luôn đúng.

Sớm hay chiều bà luôn nhóm bếp. Hình ảnh của bà luôn gắn liền với hình ảnh ngọn lửa, bà chính là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm và tỏa sáng trong mỗi gia đình, để đứa cháu như tôi không lớn lên mà không cảm thấy cô đơn vì không được cha mẹ chăm sóc. Ngọn lửa mà bà luôn ủ sẵn trong lòng, ngọn lửa chứa niềm tin một ngày đất nước sẽ được giải phóng của bà, như chuyện cho tôi thêm sức mạnh vào cuộc sống.

Cuộc đời bà lận đận, không biết bao lần chịu đựng vất vả. Mấy chục năm rồi, bà vẫn giữ một thói quen cũ, đó là dậy sớm. Bà dậy sớm để nhóm bếp, bếp lửa lan tỏa hơi ấm và tình yêu của bà. Bao nhiêu năm, khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo thơm nóng, được bà nhóm chứa đầy những tâm tình của tuổi nhỏ. Cái vị ấy sao mà quen thuộc, thân thương đến thế. Cùng bà sẻ chia niềm vui, cay đắng trong suốt nhiều năm trời, tôi làm sao quên được.

Giờ tôi đã đi xa. Ở nơi đất nước xa lạ này, có ngọn khói trăm tàu, niềm vui trăm ngả nhưng hình ảnh bếp lửa vẫn rất thiêng liêng. Nó gợi cho tôi về người bà đã gắn bó với cả tuổi thơ của mình Ngày ngày, bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống, niềm yêu thương chi chút cho cháu và mọi người. Không chỉ bằng nhiên liệu thông thường, mà bếp lửa còn được nhóm bằng chính ngọn lửa mà bà luôn giữ trong lòng, của sức sống và niềm tin, một cách kì diệu và thiêng liêng.

Mùi khói thoang thoảng, sống mũi tôi lại cay. Những kí ức chợt ùa về trong cơn gió mùa đông se lạnh. Tôi nhớ bà, nhớ cả bếp lửa, có vui lẫn buồn. Có lẽ bếp lửa đã trở thành một thứ rất quan trọng trong cuộc sống của tôi, thứ mà tôi không thể nào quên được. Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa.

Ở một nơi xa xôi của châu Âu, nơi mùa đông giá rét, ngồi bên lò sưởi lửa cháy, hơi ấm của ngọn lửa phả vào mặt khiến tôi nhớ về bếp lửa nhỏ sớm mai và hình bóng bà tôi của tuổi thơ. Hình ảnh bếp lửa nhỏ chờn vờn trong sương sớm và người bà hết mực yêu thương khiến nỗi nhớ trong tôi khôn nguôi.

Tôi sinh ra trong thời điểm đói kém, khi mà nhân dân ta cùng chống thực dân Pháp xâm lược. Đất nước chìm trong chiến tranh và khủng hoảng. Cuộc sống khó khăn và ngột ngạt nhất là người nông dân. Năm tôi lên bốn, thiên tai, hạn hán khiến cho sản xuất nông nghiệp mất mùa, thất thu. Cái đói len lỏi và từng gia đình. Tiếng người chết, khóc thương khiến khung cảnh trở nên u ám.

Bố mẹ tôi làm quần quật mưu sinh để lo cho cuộc sống, còn bà ở nhà chăm nom tôi. Cả tuổi thơ của tôi chỉ ở bên bà. Mỗi khi nhóm lửa, ngồi bên bếp lửa ấm vô cùng. Khói bếp cay xè mắt, nước mắt, nước mũi chảy. Nhớ về những hình đó khiến tôi như cay cay trên sống mũi. Bố mẹ theo cách mạng kháng chiến chống lại kẻ thù. Tôi ở cùng bà vượt qua nhiều khó khăn và tôi dần khôn lớn trong vòng tay người bà thân yêu. Thời gian trôi qua chiến tranh ngày càng ác liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ thù tấn công ngôi làng, chúng cướp sạch, đốt sạch. Chúng gieo rắc sự sợ hãi cho nhiều người dân vô tội.

Bà con bên cạnh giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh, gây dựng lại từ đống đổ nát, trong tâm trí của mọi người cũng không biết ngày mai thế nào? Tuy khổ nhọc nhưng bà vẫn dặn dò tôi có viết thư cho bố thì chớ kể chuyện nhà. Bảo rằng bà vẫn mạnh khỏe. Dù thế nào đi chăng nữa bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến, mong bố mẹ tôi an tâm công tác. Bà nhóm ngọn lửa như cháy lên trong tôi ngọn lửa yêu nước, niềm tin và khát vọng gửi gắm đến tương lai.

Hòa bình trở lại với chúng tôi, bố mẹ tôi trở về quê hương đoàn tụ. Bà vui mừng đến nỗi khóe mắt cứ rưng rưng. Dù nắng hay mưa, mấy chục năm qua bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lên bếp lửa, ngọn lửa tuổi thơ trong tôi. Ôi ngọn lửa kỳ lạ và thiêng liêng, có tắt đi rồi lại cháy lên mãnh liệt. Ngọn lửa như nhắn nhủ tôi luôn nhớ về người bà yêu thương, hi sinh vì con cháu và cả quê hương đất nước.

Dù sau này có đi xa, hưởng cuộc sống sung túc, tôi vẫn không quên hình ảnh bếp lửa và người bà hiền hậu, đồng thời luôn nhắc nhở trách nhiệm của tôi với bà cũng như quê hương, đất nước.

Ở một nơi xa xôi, ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, hình ảnh bếp lửa ấm áp quen thuộc của tuổi thơ bỗng ùa về trong tâm trí của tôi. Hình ảnh bếp lửa thân thuộc của góc bếp Việt Nam, hình ảnh bếp lửa còn khiến tôi nhớ về bà.

Mỗi sáng sớm bà đều dậy nhóm lửa, ánh lửa cháy lên bắt đầu một ngày mới, bếp lửa ấy còn là nỗi vất vả sớm hôm không quản nắng mưa của bà. Nhớ lại hồi đó tôi mới bốn tuổi, mùi khói của bếp lửa cho đến giờ vẫn chẳng thể quên, những năm tháng ấy là nạn đói của cả dân tộc, cả bố và mẹ đều phải đi công tác và nhiệm vụ nên chỉ có tôi ở nhà với bà. Ngày xưa mắt tôi nhèm vì làn khói bếp thì bây giờ sống mũi lại cay khi nhớ về nó. Trong suốt tám năm tôi sống cùng bà, tôi là người cùng bà nhóm lửa, cứ mỗi mùa tu hú kêu bà tôi lại kể chuyện những ngày ở Huế. Tiếng tu hú tha thiết như chính tình cảm thương yêu của bà, bà chăm lo cho tôi từng cái ăn, cái mặc, dạy tôi học, dạy tôi làm, tôi thương bà khó nhọc nên bà bảo gì tôi đều nghe. Nhớ năm giặc vào làng tôi đốt cháy cả nhà nhưng bà vẫn dặn tôi có viết thư không được kể linh tinh mà phải bảo nhà vẫn bình yên cho bố mẹ yên tâm công tác. Ngọn lửa bà tôi nhóm lên không đơn thuần là ngọn lửa cháy mà còn là ngọn lửa niềm tin, hy vọng. Cả cuộc đời bà suốt mấy chục năm ngày nào bà cũng dậy sớm nhóm lửa, tôi nhờ có ngọn lửa mà có niềm yêu thương, có khoai sắn ngọt bùi và cả những tâm tình tuổi thơ. Giờ đây khi đã đi xa đến miền đất xa lạ, có những niềm vui mới có nhiều tương lai thế nhưng tôi lại chẳng có bếp lửa và bà, trong lòng vẫn luôn khắc khoải câu hỏi “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.

Cả cuộc đời này tôi sẽ chẳng bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa, cũng không thể nào quên được tình yêu thương vĩ đại, vô bờ bến mà bà đã dành trọn cả cuộc đời cho tôi.

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Thứ Vàng Mười Trong Người Lái Đò Sông Đà 2 Dàn Ý & 7 Bài Văn Mẫu Lớp 12

Văn mẫu lớp 11: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân tuyển chọn 7 mẫu kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Chất vàng mười đã qua thử lửa được dùng để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.

1. Mở bài

Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ Vang bóng một thời và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách mạng, ông không đổi lập quá khứ với hiện tại, đặc biệt là phẩm chất tải hoa có thể tìm thấy ở nhân dân đại chúng. Tùy bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng mười của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ờ tâm hồn của những người lao động. Và hình ảnh ông lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà lả một minh chứng sống động cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật ấy.

2. Thân bài

a) Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:

– Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời sáng tác của ông là đi sân tìm cái đẹp. Cho nên, ưng con mắt của tác giả, mọi đối tượng thiên nhiên và con người đều tồn tại trên phương diện thẩm mỹ, lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn.

– Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân chia ra làm hai thời kì lớn: trước và sau cách mạng.

– Những năm trước cách mạng, Nguyễn Tuân còn đam mê chủ nghĩa lãng mạn, ông chối từ hiện tại, tìm về với vẻ đẹp cội nguồn của vần học sùng cổ, hoàn toàn xa lạ với cuộc cách mạng của chúng ta. Nhưng từ sau năm 1945, một lớp văn nghệ sĩ như Nguyễn Tuân cố sự giác ngộ tư tưởng, họ tìm được đến với Ánh sáng, phố xá của cách mạng. Nguyễn Tuân cũng hồ hởi với công việc này nhưng ông không lấy văn chương làm công cụ tuyên truyền cách mạng mà ông thể hiện tinh thần yêu nước ở phương diện khác. Đó là sự đam mê, khám phá vẻ đẹp của non sông, đất nước. Trong đó có dòng sông Đà, đảo Cô Tô, đảo Bạch Long Vĩ,…

+ Với đòi hỏi của thời cuộc, Nguyễn Tuân cũng lao mình vào thực tại để hòa nhập vào công cuộc xây dựng kinh tế sau chiến tranh, để hàn gắn vết thương mà kháng chiến chống Pháp để lại. Nguyễn Tuân cùng các đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc để tìm cho ra, cho thật nhiều: “Cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí của những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công việc, xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững’*. (Nguyễn Tuân). Vì vậy, cảm hứng chủ đạo trong tùy bút này là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân, những con người thầm lặng, vô danh mà vĩ đại.

– “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động: để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Họ là những con người bình dị, đời thường nhưng có khát khao chinh phục và làm chủ thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng kinh tê đất nước, vẻ đẹp “qua thử lửa” chính là những khó khăn, gian khổ mà họ đã trải qua trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, vẻ đẹp đó sáng ngời như một thứ “vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc.

b) Khái quát về tác phẩm:

– “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập kí “Sông Đà”, đây là một tác phẩm tùy bút có giá trị rất sâu sắc cả về văn học và xã hội. Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng mười của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động đã qua thử lửa”. Tác phẩm này còn đặt nền móng cho nhiều dự án mang tính lịch sử – chính trị-xã hội sâu sắc nhưng hơn hết được mệnh danh là một tác phẩm văn chương gần như đạt đến sự hoàn mỹ.

– Tập kí “Sông Đà” ra đời năm 1960, trong công cuộc xây dựng vùng Tây Bắc sau chiến tranh. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại mang đến cảm hứng riêng của mình cho đề tài này. Chế Lan Viên hồ hởi với chuyến tàu lên Tây Bắc, còn Nguyên Khải lại thấy sự đổi thay trong con người. Cũng trong đề tài đỏ, Nguyễn Tuân khám phá và phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc như bàn thể của núi rừng. Nó chính là thủ vàng mười mà nhà văn đang tìm kiếm.

c) Hình tượng người lái đò sông Đà:

– Hình ảnh người lái đò trong tác phẩm không được miêu tả chi tiết về hình ảnh và cá tính mà phần lớn được gợi lên thông qua vẻ đẹp của con người lao động trí tuệ và tài hoa.

– Trong tác phẩm, nhà văn xây dựng hai nhân vật đó là con sông Đà và người lái đò trên dòng sông ấy. Đỏ là một dụng ý nghệ thuật cao tay của bậc tu từ tài hoa. Bức tranh thiên nhiên dữ dội, con quái vật hiểm ác, kẻ thù số 1 kia chỉ là phông nền để tác giả tô vẽ, ngợi ca, tôn vinh sức mạnh kì vĩ của con người. Vì thế, hình tượng người lái đò sông Đà được nhà vãn xây dựng như một dũng tướng tài ba, là một nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đò vượt thác.

– Vốn dĩ xuất thân từ núi rừng nên ông lái gắn bó chặt chẽ với cuộc sống nơi đây. Ông sinh ra trên bờ sông Đà, dòng sông thác lũ đó là nguồn nuôi sống chữ ông ngay từ khi còn đỏ chỏm. Cho đến cuộc sống sau này, cuộc đời Ông vẫn là những hành trình leo thác, vượt sông, hình như con người và thiên nhiên gắn bó mật thiết cho nên khi đã nghỉ đò mà ông vẫn nhớ về thác lũ và trận địa đá trên sông.

– Trên dòng sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu được quy luật của các dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng xanh luồng dữ, cửa sinh, cửa tử; thông minh, gan dạ, hoạt bát, tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái, đua người và hàng vượt qua 73 con thác đến đích an toàn. Con người ấy được ví như “thứ vàng mười” nhưng lại là một tay nhà đò nghèo khổ, tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, giọng ồn ào như tiếng thác nước mặt ghềnh sóng, nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun, khuôn mặt khắc khổ in hằn dấu vết của công việc đầy gian nan, nguy hiểm. Ông là một nhân vật không tên, vì ông là đại diện cho bao nhiêu con người trên đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm, cần mẫn trong lao động, không ngừng phải đối diện với thiên tai địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương đất nước. Nhờ đó mà hình tượng trở nên lớn lao, kì vĩ.

– Người lái đò là người rất mực trí dũng và bàn lĩnh .Để làm nổi bật phẩm chất này, Nguyễn Tuân đã có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách, khốc liệt. Nguyễn Tuân khẳng định “Ông muôn ghi cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đỏ trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà”. Nhà văn đã mô tả một cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò vô cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, thủy chiến dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Đá ờ đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông…để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông với những boongke chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức văn hóa khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh…của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thủy chiến ác liệt giữa người lái đò và sóng thác sông Đà: “Sóng nước thúc gối vào bụng và hông thuyền… có lúc chúng đội cà thuyền lên… sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất”. Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thủy quái sông Đà vô cùng hung bạo ấy ngấu nghiến nuốt chửng. Trước sức mạnh của kẻ thù số một của con người, ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyên lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “Phá cái trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo”… “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Những người lái đò vẫn “Cười lên thác sông Đà.. .đến cùng như cưỡi hổ”.

– Người lái đò tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò còn là người rất mực tài hoa, có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác, khỉnh suất, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả chính sinh mạng của mình. Nhung sóng, thác sông Đà đù cớ hung dữ đến đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò trí dũng đó. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có kĩ nghệ chở đò kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà, nhờ thế mà người lái đò ớ tư thế chủ động, tự do, người chiến thắng. Ông lái đò đã nắm chắc mọi quy luật của dòng sông. Lúc thì “ông cưỡi thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử” lúc lại “Ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác để mở đường tiến”. Bằng những động tác thuần nhuyễn trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền “như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình có “tay lái ra hoa” là như vậy. Người lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng chiến thắng thiên nhiên.

– Ông lái đò còn hiện lên với vẻ đẹp của người lao động bình dị: Khác với cảm xúc của tác giả, thì việc vượt sông của ông lão chi là công việc lao động bình thường, ông đã quên ngay khi hành trình kết thúc. Con sông Đà hung dữ như vậy nhưng ông chỉ coi nó như chiếc lá thu. Ông đến với nó như người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó và lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Quà mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm lại tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Hộ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh, như không hề có chuyện gì xảy ra, cho dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt. Đó là vẻ đẹp bình dị của những con người lao động trên miền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.

Tiểu kết: Với cá tính sáng tạo độc đáo, Nguyễn Tuân luôn có những phát hiện mới lạ nơi con người và sự vật. Nhà văn mang đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về vẻ đẹp của con người lao động, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở những nơi chiến trường, nó hiện hình ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta phải lao động, vật lộn với miếng cơm, manh áo và cho những điều lớn lao hơn thế. Trí dũng, tài hoa không phải tìm ở đâu xa mà nỏ hiện hữu ngay trong những con người bình thường, giản dị nhưng luôn ánh lên “chất vàng mười” vô cùng quý giá. Cuộc đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu là một khúc vĩ thanh tuyệt vời của núi rừng Tây Bắc, là ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật chân chính của người nghệ sĩ. Vì lẽ đó, tác phẩm đã trở thành một tuyệt phẩm vinh danh sự tìm tòi và sáng tạo không ngừng trong cuộc đời lao động nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông xứng đáng là “ông vua” của thể loại tùy bút – một bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại

d) Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kí của Nguyễn Tuân

– Thiên tùy bút mang đậm cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác ở cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ, văn hóa: dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của Tạo hóa; người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.

– Vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,., .huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực: địa lý, lịch sử, võ thuật, thể thao, quân sự để xây dựng hình tượng.

– Sử dụng hình ảnh mới lạ, độc đáo, hấp dẫn.

– Sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả trở nên sống động và hấp dẫn hơn.

– Tất cả những kết tinh nghệ thuật như trẽn đều nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình; vẻ đẹp của người lao động trên sông nước rất đỗi bình dị, kỳ vĩ mà lớn lao.

3. Kết bài

Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và khâm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười” quý giá của Tổ quốc. Sáng tạo nên hình tượng này, Nguyên Tuân đã mang đến một thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa, nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động và những người bình dị có trí dũng tài ba, họ có thể tạo hình tạo mẫu cho nghệ thuật văn chương.

I. Mở bài:

– Giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác tùy bút sông đà của Nguyễn Tuân.

– Giới thiệu vấn đề nghị luận: “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò.

II. Thân bài:

– Giải thích một cách ngắn gọn ý của cụm từ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” – từ dùng của Nguyễn Tuân – để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.

– Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà:

Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân (không tên, tuổi, quê quán).

Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.

Ông am hiểu đối tượng mà mình đang chinh phục.

* Sự từng trải:

– Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết : người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.

– Ông mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống lao động hàng ngày:

– Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

– Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đất nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn.

– Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.

+ Nghệ sĩ tài hoa :

– Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba

+ Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới: giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí.Đó là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

III. Kết bài:

– Khái quát lại vấn đề: Nhận xét chung về vẻ đẹp của ông lái đò, đánh giá nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào tình huống đầy cam go, thử thách để nhân vật bộc lộ tính cách phẩm chất; phối hợp những thủ pháp tiêu biểu của các ngành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện…

– Rút ra bài học cho bản thân.

Là một nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân dành trọn cả cuộc đời mình để rong ruổi khắp nơi truy tìm chân – thiện – mỹ. Ở văn chương của Nguyễn Tuân, ta không chỉ thấy thiên nhiên gắn liền với cái đẹp mà đến cả con người, vẻ đẹp ấy cũng ngã vào trang giấy. Nguyễn Tuân nhìn đời bằng ánh nhìn tinh tế, ông đi sâu khai thác vào vẻ đẹp bên trong bị khuất lấp bởi những dung dị đời thường của những con người lao động. Ở “Người lái đò sông Đà”, vẻ đẹp của con người được đẩy lên đến tột cùng khi được ví von như “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” hay vẻ đẹp của thiên nhiên được gọi bằng “Chất vàng mười”.

Được trích từ tập tùy bút “Người lái đò sông Đà”, tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những ngày đất nước đang trên đà đổi mới, người dân bắt đầu công cuộc kiến thiết đất nước. Tác phẩm còn đặc trưng cho phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám là nhận thấy và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của con người lao động. “Người lái đò sông Đà” là minh chứng cho chủ nghĩa xê dịch ở Nguyễn Tuân cũng như vốn từ vựng phong phú cùng với tài hiểu biết uyên thâm của nhà văn.

“Vàng” mà Nguyễn Tuân sử dụng không theo nghĩa đen mà ở đây ta có thể hiểu đó là cụm từ kết tinh hết những vẻ đẹp, tinh hoa của đất trời Tây Bắc và vẻ đẹp tài trí của con người.

Trong cả thiên nhiên và con người Tây Bắc đều tiềm tàng những giá trị quý báu được thể hiện một cách tinh tế. “Chất vàng mười” ám chỉ những giá trị lớn lao mà thiên nhiên nơi đây chất chứa. “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” cũng giống như con người Tây Bắc đã được tôi luyện qua những thử thách, gian lao. Cách sử dụng từ “vàng” theo cách của Nguyễn Tuân rất “đắt” cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật.

Sông Đà tự bao đời nay vẫn giữ riêng cho mình một vị trí độc tôn giữa núi rừng Tây Bắc, dòng sông như biểu tượng cho sức mạnh và sự hùng vĩ của thiên nhiên. Hai bên sông Đà “đá dựng thành vách” như những thành trì kiên cố, vững chắc khó lòng xâm phạm. “Những thác nước gầm réo muôn đời” như tiếng oán than của sinh vật chốn rừng thiêng chỉ trực chờ tước mạng con người. Khi lại như van xin, lúc lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, con sông lúc này đang điên cuồng, hung bạo đến tột cùng, nó như trở thành biểu tượng của sự oai linh. Cùng với những vách đá và tiếng thác nước gầm réo muôn đời, sự xuất hiện của sóng, của đá và gió sông Đà tạo thành một bản hùng ca sông nước.

Sông Đà mưu mẹo, hiểm ác khi đã bố trí những tảng đá từ hòn to đến nhỏ phối hợp với các ghềnh thác tạo thành những thạch trận trên sông. Cửa sinh bao giờ cũng hiếm hoi hơn cửa cửa tử. Sông Đà luôn trực chờ những mái chèo non tay lái để nuốt gọn vào lòng. Sự bố trí cửa sinh và cửa tử ở mỗi vòng đều khác nhau để đánh lừa những con người không tường tận sông nước nơi đây. Sông Đà lúc này mang hình hài là “kẻ thù số một của người lái đò”.

Thế nhưng bên cạnh những hung bạo của dòng sông “đời đời làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc” thì sông Đà cũng có những lúc trữ tình, e lệ đến lạ. Từ “thứ kẻ thù số một”, sông Đà lúc này lại được ngắm nhìn như một cố nhân. Nắng sông Đà như màu “nắng tháng Ba đường Thi”, đầy vẻ thú vị khiến người ta quên béng đi vẻ hung bạo vốn có. Sông Đà khoác lên vẻ dịu dàng của “một áng tóc trữ tình” và điển lên áng tóc tuôn dài ấy mà tạo hóa đã ban tặng cho con người Tây Bắc là sắc trắng của hoa ban, hoa gạo tháng Hai.

Sông Đà đẹp đến nao lòng người, dòng sông thướt tha bao đời dung hòa với đất trời Tây Bắc như một nét chấm phá nơi đây. Nước sông Đà không chỉ tẻ nhạt một màu vĩnh cửu mà ở mỗi mùa, nước sông lại biến đổi thành những sắc màu khác nhau. Là “xanh màu xanh ngọc bích” như hân hoan với đất trời mùa xuân, là “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” mỗi độ thu về.

Không chỉ dòng sông, hai bên bờ sông cũng được miêu tả nên thơ, trữ tình đến lạ. “Hai bên bờ sông lặng tờ” như tăng thêm nét huyền bí, cuốn hút cho dòng sông “chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẵng tính và gắt gỏng, thác lũ ngay đấy”. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, chưa có sự khai phá, động chạm của con người, bờ sông lúc này vẫn giữ nguyên nét đẹp tựa buổi hồng hoang. Sự xuất hiện của “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” khiến đoạn văn như được thổi bùng sức sống.

Ngoại hình cao lêu nghêu, chân lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ông ào ào. Ngay cả trong ngoại hình, Nguyễn Tuân cũng sử dụng những thi liệu từ sông nước để gợi tả ông đò cho thấy sự gắn bó với ông đò với dòng Đà giang. Ông như thổ địa nắm trong tay từng chân tơ, kẽ tóc sông Đà, ông can đảm, mưu trí, ngày ngày đối mặt với những cơn thịnh nộ từ lòng sông để đò ông cập bến an toàn.

Ông lái đò là một tay lái ra hoa được minh chứng với việc ông chèo chống con đò, đối mặt với dòng nước sông Đà mỗi ngày để mưu sinh. Ông am hiểu từng hòn đá, thuộc quy luật của từng luồng nước, điều đó cũng góp phần làm nên “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nơi đây.

Ngày ngày, biết bao con người Tây Bắc phải gồng mình đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để mưu sinh, có thể ví von những con người ấy “đã qua thử lửa”. Ở ông đò, ta thấy được phong thái tài ba thực thụ mà không phải ai hành nghề lái đò cũng có thể có được. Ông bình thản, chú tâm xuyên suốt cuộc chiến với dòng sông Đà hung bạo kia.

Ông điêu luyện nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, am hiểu từng mạch nước của con sông Đà hung tợn. Thạch trận của con sông Đà dù ở vòng vây nào cũng bị ông đò dễ dàng nắm thóp, ông thuộc tất thảy sự bố trí cửa sinh, cửa tử mà sông Đà đã dày công sắp đặt. Đối với mỗi trận, ông đều có cho mình những cách đối mặt riêng, khi thì rảo bơi chèo, khi vượt lên đè nát những hòn đá ngỗ nghịch.

Ông đò như một nhà chỉ huy tài ba chèo lái con đò đến bờ an toàn. Một chút thiếu bình tĩnh hay lỡ tay cũng trả giá bằng sinh mệnh, ấy vậy mà ông đò đối mặt với chuyện ấy nhẹ tựa lông hồng. Ông đò khỏe khoắn, mưu trí, tài ba như đại diện cho tầng lớp nhân dân đang ngày ngày làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

“Người lái đò sông Đà” như một bản hùng ca về thiên nhiên kỳ vĩ nơi Tây Bắc. Đồng thời cũng bộc lộ được nghệ thuật tài ba của Nguyễn Tuân trong hành trình đi tìm cái đẹp, ông đã khai thác xuất sắc vẻ đẹp tài hoa của con người bị khuất lấp sau vẻ ngoài lao động dung dị, giản đơn. Miêu tả thiên nhiên với hai đặc tính hung bạo và trữ tình để làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của con người lao động trong Cách mạng cũng như trong thời kì kiến thiết đất nước.

Trong “Trường ca mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm từng viết:

Non sông gấm vóc Việt Nam được tạo nên từ trăm ngàn con sông lớn nhỏ. Từ những dòng sông ở đồng bằng mang đến bao phù sa màu mỡ đến những con sông ở miền núi cao với tiềm năng thủy điện, chúng đều có những vẻ đẹp riêng. Với Nguyễn Tuân – nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp – lại bị cuốn hút bởi một con sông đặc biệt: sông Đà. Vẻ đẹp của sông Đà được Nguyễn Tuân xem là “thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc”.

Vàng mười không chỉ đẹp mà còn rất có giá trị. Và có lẽ vì đó mà nhà văn gọi sông Đà là “thứ vàng mười”. Sông Đà đẹp, nhưng lại mang một vẻ đẹp rất khác, đầu tiên nằm ở hướng chảy của nó. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã trích hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích:

Trong khi mọi dòng sông đều rủ nhau chảy về hướng đông thì sông Đà ung dung ngược về phương bắc, chỉ riêng mình nó chảy về phương Bắc mà thôi. Có lẽ vì vậy mà con sông này có đến hai nét tính cách riêng biệt: hung bạo nhưng cũng rất đỗi trữ tình.

Sông Đà trước tiên là dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Cái hùng vĩ của nó được thể hiện qua những tảng đá ven bờ được dựng thành vách. Vách cao đến nỗi “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc chính ngọ mới có mặt trời”. Thậm chí, nó còn “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Ở đây, Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh rất thành công, tái hiện lại cho người đọc được độ cao của vách đá cũng như sự âm u đáng sợ của sông Đà. Tiếng gầm thét của con sông nghe cũng thật đáng sợ, suốt năm suốt tháng cứ gầm ghè gào thét, “nghe như là tiếng đòi nợ xuýt” vậy. Ghềnh Hát Loóng nước đổ dữ dội “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Người lái đò qua đây phải vô cùng cẩn thận nếu không thuyền sẽ bị lật ngửa lên ngay. Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ khiến con sông trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn. Con sông Đà hung bạo còn bởi những cái hút nước chết người. Chúng như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu, khi thì “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hút nước vốn đã ghê rợn lại được nhà văn sử dụng các từ như “thở, kêu, ặc, ặc ăc” càng làm tăng thêm sự khủng khiếp của chúng. Trong phần này, Nguyễn Tuân đã chứng minh sự tài hoa uyên bác của mình bằng cách sử dụng vốn kiến thức từ nhiều lĩnh vực từ điện ảnh, âm nhạc, hội họa đến xây dựng để miêu tả sự kỳ vĩ, hung bạo của Đà giang. Có thể nói, ông là người đầu tiên so sánh nước với lửa: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Nước và lửa vốn là hai thứ có sức hủy diệt lớn, lại luôn tương khắc nhau, nay dưới ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân mà trở thành hai yếu tố hợp sức với nhau để tái hiện nên cái kỳ vĩ của thác nước. Tiếng nước nghe “như là oán trách, rồi lại như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn chế nhạo”. Tác giả đã nhân cách hóa dòng sông, biến nó thành một tạo vật trái tính trái nết, lúc nào cũng gầm gừ gào thét những âm thanh ghê rợn.

Cái hùng vĩ của sông Đà không chỉ ở thác nước mà còn ở những “trùng vi thạch trận” đầy hiểm nguy. Tác giả chia đá ở đây thành ba trùng vi thạch trận. Vòng đầu tiên là “hàng tiền vệ” với bốn của tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm về phía tả ngạn dòng sông. Chúng có nhiệm vụ dụ thuyền vào giữa tuyến rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Tiếp đến là vòng thứ hai. Vòng này tăng thêm cửa tử, cửa sinh được bố trí về hữu ngạn với những boongke pháo đài có nhiệm vụ tiêu diệt những thuyền vượt qua vòng một. Trùng vi thứ ba thì ít cửa hơn, cửa sinh lại nằm ở chính giữa. Đi hết cửa này lòng sông bỗng trở nên thanh bình. Sông Đà hiện lên như một loài thủy quái đầy mưu mô, xảo quyệt. Những loại đá thì như những binh sĩ hung tợn, tên nào tên nấy ngỗ ngược, nhăn nhúm và hiếu chiến. Một lần nữa nhà văn lại thể hiện sự uyên bác của mình qua lĩnh vực quân sự, thể thao, võ thuật để miêu tả sông Đà. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm tài ba đang kể lại cho chúng ta chuyến thủy trình đầy hiểm nguy bằng những ngôn từ, liên tưởng vô cùng sống động. Sự ghê rợn của Đà giang nghìn đời nay vốn vẫn quyết đấu với con người. Có thể nói, qua việc miêu tả thác nước sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sức mạnh chế ngự tự nhiên của con người. Nhưng suy cho cùng, sự dữ dội của con sông ấy lại mang về tiềm năng thủy điện, tiềm năng kinh tế cho người dân, đất nước.

Đáng sợ là thế nhưng sông Đà cũng là một dòng sông rất trữ tình. Đi qua cái dữ dội của thác đá, sông Đà lại trở về là một dòng sông thanh bình, dịu êm. Không còn những trùng vi thạch trận đầy hiểm nguy, không còn những hòn đá ngỗ ngược, sông Đà lúc này êm đềm với những chuồn chuồn, bươm bướm. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân. Do đó, ông hiểu cái “chất đằm đằm ấm ấm” thân quen và cái chất thơ mộng mị của cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Ven bờ là những bãi ngô non, là cỏ gianh, là đàn hươu thong dong gặm cỏ. Sông Đà không chỉ mang đến tài nguyên thủy điện mà còn bồi đắp phù sa màu mỡ cho núi rừng Tây Bắc. Sông Đà, trong mọi hoàn cảnh lại có một vẻ đẹp riêng. Khi đi máy bay, có người sẽ thấy đó là “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, có người lại thấy con sông như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc”. Theo cách nói của tác giả, “đối với mỗi người, sông Đà lại gợi cảm theo một cách khác.” Nước sông Đà đổi màu đa dạng theo thời gian. Mùa xuân, nước sông xanh màu ngọc bích, màu xanh quý phái khác hẳn sông Gâm sông Lô”. Mùa thu nước sông lại “lừ lừ chín đỏ”. Và đặc biệt, nước sông Đà chưa từng có màu đen như Thực dân Pháp “lếu láo” gọi. Rõ ràng, Nguyễn Tuân phải hiểu rất rõ về sông Đà mới đưa ra khẳng định như thế. Điều đó vừa làm tôn lên vẻ đẹp của sông Đà, vừa thầm kín thể hiện tình yêu của tác giả đối với dòng sông đặc biệt này. Sông Đà còn là dòng chảy của lịch sử nước Nam ta. Bởi lẽ, từ đời Lý – Trần, Lê sơ, cảnh ven sông đều lặng lẽ như tờ. Bờ sông bấy lâu nay vẫn tĩnh lặng hoang sơ giờ đây cần được đổi mới. Giá mà có tiếng còi xe lửa mang theo sự nhộn nhịp giàu sang ở miền xuôi lên Tây Bắc thì tốt biết bao! Những câu văn của Nguyễn Tuân như những bản tình ca êm ái, vừa sống dậy những vẻ đẹp hiện đại, vừa đưa ta trở về với những miền ký ức xa xăm nay chỉ còn là vang bóng.

Nhìn sông Đà như một cố nhân, Nguyễn Tuân thể hiện cái tình cảm tri âm tri kỷ đối với dòng sông kỳ lạ này. Đối với ông, sông Đà không chỉ là một tạo vật thuần túy mà còn là một sản phẩm nghệ thuật cần được trân trọng, khám phá. Bằng cái nhìn độc đáo, cảm nhận tinh tế, Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy “cái chất vàng mười đã qua thử lửa” có một không hai của Tây Bắc. Sông Đà không đơn thuần là một dòng sông, nó là một nhân tố làm giàu đẹp thêm tương lai đất nước.

Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta mới thấy rõ con người suốt đời đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân. Không những thế, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước, say mê với vẻ đẹp tiềm tàng của núi rừng Tây Bắc thân thương.

Tây Bắc thật hùng vĩ với vẻ đẹp quý giá của thiên nhiên, nhưng con người còn quý giá hơn khi chinh phục được thiên nhiên. Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà được nhà văn diễn tả thành công khi khắc họa nên hình tượng người lái đò.

Nhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân xây dựng nên giống như một tượng đài của nhân dân. Đó là hình ảnh về một con người rất đỗi bình thường, không tên, không tuổi, không quê quán và hoạt động trong một môi trường khắc nghiệt đầy dữ dội.

Ông lái đò đã gần 70, có ngoại hình lêu nghêu, chân lúc nào cũng như khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy một cuống lái, giọng ào ào như một ghềnh sông. Cái đầu ông đã bạc nhưng vẫn còn quắc thước với thân người cao to, gọn quánh đầy những chất sừng, chất mùn… Trong tác phẩm, ông lái đò hiện lên là một người từng trải, thành thạo và lão luyện với nghề sông nước của mình.

Người lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân trở thành linh hồn muôn thuở của sông nước này. Ông được miêu tả làm nghề đò được hơn mười năm rồi. Sự từng trải hiểu biết về đối tượng chinh phục của ông còn thể hiện ở việc ông nhớ rất rõ bảy mươi ba con thác với từng luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.

Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà thể hiện ngay ở vẻ đẹp của người lao động. Sông Đà như một thiên anh hùng ca bất tận mà ông thuộc lòng đến từng dấu chấm câu. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại đưa vào tác phẩm của mình những ngọn thác cũng như thời gian mà ông lái đồ cầm lái trên dòng sông này. Tất cả đều hướng đến chất vàng mười trong người lái đò sông Đà. Ông lái đò làm việc trong một hoàn cảnh khắc nghiệt đầy thử thách. Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào môi trường đó để nhấn mạnh và làm bật nên chất vàng mười trong người lái đò sông Đà cũng như cho thấy sự dũng cảm mưu trí của người lao động dù trong hoàn cảnh khốc liệt nhất của cuộc sống. Đây được xem là cuộc chiến đấu gian lao, một cuộc thủy chiến trên mặt trận của con sông Đà.

Một cuộc vượt thác nguy hiểm được diễn ra nhiều trận, nhiều hồi với nhiều mồ hôi, như một trận đánh nguy hiểm chết người mà nếu không có sự mưu trí và dũng cảm sẽ không thể vượt qua được. Chất vàng mười trong người lái đò sông Đà còn hiện lên ngay cả khi người lao động bị thương, ở đây ông lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn khép chặt cuống lái mà chiến đấu.

Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà còn được cho thấy ở phong thái đĩnh đạc của một nghệ sĩ tài hoa. Nguyễn Tuân đã trân quý mà nói rằng “đây là một tay lái ra hoa”. Quy luật của con sông Đà vốn khắc nghiệt, bởi chỉ cần một chút lơ là, một chút thiếu bình tĩnh cũng có thể mất mạng. Tại khúc sông này, chỗ nào cũng thấy toàn những hiểm nguy cả. Người lái đò điêu luyện vừa thuộc dòng sông, nằm lòng quy luật của lũ đá nơi ải nước lại nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Do đó, mỗi khi vào cuộc chiến, ông lái đò luôn bình tĩnh và khôn khéo, giống như một vị chỉ huy cầm quân tài ba. Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà là sự tài hoa đầy nghệ sĩ của người lao động nơi Tây Bắc này.

Có thể thấy, người lái đò mang những vẻ đẹp của những người lao động thời kỳ hiện đại: giản dị, khiêm nhường nhưng lại vô cùng khỏe khoắn, hùng tráng, tài trí. Đây chính là những con người lao động làm chủ được thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và công việc của mình. Có thể nói, thể hiện những vẻ đẹp của ông lái đò chính là một sự tinh tế và sắc sảo trong ngòi bút của Nguyễn Tuân khi đề cập đến chất vàng mười trong người lái đò sông Đà.

Biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên nơi mảnh đất Tây Bắc chính là hình tượng kì vĩ lớn lao của dòng sông Đà. Vẻ đẹp của nó thể hiện rõ nét cho chất vàng mười trong người lái đò sông Đà. Sự dữ dội, mạnh mẽ và hùng vĩ của thiên nhiên được tái hiện gói gọn trong vẻ đẹp của con sông Đà.

Với địa thế đầy ấn tượng “hai bên đá dựng thành vách” với lòng sông thì “chẹt lại như một cái yết hầu”. Sông Đà hiện lên thật hùng vĩ nhưng đầy hung bạo và hiểm ác. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt các phép so sánh và nhân hóa để thần thánh hóa sông Đà như một con thủy quái nham hiểm và hung dữ.

Bên cạnh sự hiểm nguy đầy hung bạo, con sông Đà còn mang vẻ đẹp nên thơ và trữ tình. Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông trở thành một thiếu nữ Tây Bắc vừa mang vẻ hoang dại lại có sức hấp dẫn và kiều diễm. Đó là sự mềm mại thướt tha êm đềm của dòng sông, là màu nước đa dạng thay đổi theo mùa “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình” hay mang “màu xanh ngọc bích” rồi lại “lừ lừ chín đỏ”…

Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà không chỉ ở vẻ đẹp trữ tình của dòng sông mà còn ở vẻ đẹp rất đỗi hiền hòa. “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông rất đỗi hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xa xưa…”. Hơn thế là cảnh sắc ấm áp tươi vui và đầy sức sống ở hai bên bờ sông.

“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sĩ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đò vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.

Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngày đầu tiên với ngoại hình của ông:

“Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”

Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi:

“Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.

Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.

Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tượng, đá tiền về với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vì một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch.Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc. Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sĩ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.

Giữa cánh đồng văn chương rộng lớn, người nghệ sĩ nhỏ bé như những hạt bụi bay lượn trong không khí để tìm chất vàng trong bộn bề của cuộc sống. Với Nguyễn Tuân, chất vàng mà ông tìm được qua chuyến đi gian khổ đó là chất vàng mười của thiên nhiên và ở đó ông đã làm nổi bật lên “thứ vàng mười đã đi qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động. Điều đó được thể hiện trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” đặc biệt được tô đậm qua hình tượng người lái đò.

Văn chương chính là nguồn cảm xúc bất tận chảy trong những người nghệ sĩ, chính những cảm xúc ấy đã thôi thúc nhà văn phải tìm nguồn đề tài và cầm bút lên sáng tác. Mỗi tác phẩm ra đời là cả một quá trình thai nghén, người nghệ sĩ phải lặn ngập trong biển lớn cuộc đời để tìm cảm xúc, cũng chính vì vậy mà mỗi một tác phẩm ra đời là cả một quá trình gian khổ. Cũng như Nguyễn Tuân, tùy bút sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà ông đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc. Chính lúc đó, ông bắt gặp một cảnh làm mạch cảm xúc của ông tuôn trào không kìm nén đó là vẻ đẹp tâm hồn của người lao động con mắt tinh tế của ông dường như nhìn thấy được vẻ tâm hồn ấy qua vẻ đẹp của thiên nhiên mà ở đó ông gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa”. Tất cả được ông thể hiện qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Dưới ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân, dường như mọi nhân vật đều trở nên mới mẻ và độc đáo, hình tượng người lái đò chính là nhân vật điển hình cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của ông.

Ở đây, “thứ vàng mười” chính là vẻ đẹp tâm hồn của người lao động mà không ai khác chính là ông lái đò, vẻ đẹp ấy đã qua thử lửa bởi chính con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân là một ngọn lửa nóng chảy. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng người lái đò với hai tính cách đó là sự chí dũng kiên cường và chất tài hoa nghệ sĩ, hai tính cách đối lập đã làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Bước vào tác phẩm, ta bắt gặp ngay ở tên đề “Người lái đò sông Đà”. Ở đây, tác giả miêu tả làm nổi bật con sông Đà nhưng đó không phải là trung tâm của tác phẩm mà cái ông muốn hướng đến là người lái đò. Ông miêu tả sâu sắc con sông Đà chỉ để làm nổi bật hình tượng người lái đò, chính nét đẹp vốn có được ẩn hiện trong con người nhỏ bé kia được tác giả khai thác đến. Nếu như sông Đà hiện lên với vẻ hùng vĩ, dữ dội thì người lái đò lại có sự chí dũng cao cường để chế ngự và sông Đà cơ vẻ đẹp nên thơ trữ tình thì người lái đò hiện lên với chất tài hoa nghệ sĩ đó là sự hòa hợp, đối xứng với thiên nhiên mà Nguyễn Tuân thấy được ở người lái đò.

Sự chí dũng, kiên cường của người lái đò được ông thể hiện ở trận thủy chiến với con sông Đà. Ở đây, có sự đối lập mà tác giả đem đến đó là giữa ông lái đò và con sông Đà. Ông lái đò là một người già yếu, nhỏ bé với sáu cánh chèo như que tre mà phải đối mặt với con sông Đà dữ dội, nước chảy hùm beo như muốn nuốt chửng người lái đò. Nhưng với sự chí dũng, kiên cường của mình, ông đã dũng cảm tiến về phía trước. Con sông Đà dữ dội, nó chia thành mấy đợt đánh và có chiến thuật riêng, đợt một nó có bốn cửa tử và một cửa sinh mà cửa sinh lại nằm phía tả ngạn, đợt hai ít cửa tử hơn và luồng sinh nằm ở phía hữu ngạn và ở đợt ba nó chỉ có hai cửa tử và luồng sinh ở đợt này lại nằm ở giữa những hòn đá tiền vệ. Nhưng với con mắt tinh tế, ông linh hoạt trong từng đợt đánh, có lần sông Đà liên tục tấn công làm người lái đò nôn nao trên chiếc thuyền nhỏ bé, chúng húc vào hông thuyền như muốn lật đổ, dù đã mệt mỏi, da tái nhợt đi nhưng với sự quyết tâm, ông lái đò ghì chặt những mái chèo để chiến đấu tiếp.

Là một người lái đò nhưng ông như một thiên hùng ca khi mà ông thuộc lòng những luồng sóng, vách đá thậm chí thuộc từng dấu phẩy, dấu chấm vì thế nên không ai làm khó được ông, cho dù con sông Đà có dữ dội đến mấy. Sau khi bị tấn công liên tiếp, ông lái đò ghì chặt mái chèo, xông thẳng lên như một viên tướng cầm quân đang thuần phục con tuấn mã, ông xông lên ngọn sóng ghì chặt nắm lấy dây cương sấn đôi nó ra để mở đường tiến. Ở sông Đà có những dãy đá được bày sẵn ra như một bát quái chở người lái đò đến nhưng sự thông minh, khéo léo, ông đã vượt qua nó một cách suôn sẻ. Là một người sống với nghề chèo đò vượt thác, người lái đò không lạ lẫm với sông nước với những trận thủy chiến như thế này. Tuy nhiên, ở ông ẩn hiện ra là vẻ đẹp của người lao động mang sắc thái của người nông dân Việt Nam cần cù, chăm chỉ, đó chính là “thứ vàng mười” được phát hiện qua con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân như một phát hiện mới mẻ mà các nhà văn đã bỏ qua. Cùng với sự phát hiện mới mẻ ấy, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại càng trở nên độc đáo hơn.

Không những thế, “chất vàng mười” còn được Nguyễn Tuân miêu tả ở chất nghệ sĩ tài hoa của người lái đò. Đây như một hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mà chỉ có những nhà văn chân chính mới có thể nhìn thấy. Văn chương phải có tâm hồn. Chính vì vậy, nhà văn luôn đi tìm những gì còn ẩn nấp sau tâm hồn kia như Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”. Ở Nguyễn Tuân, không chỉ có những người làm nghệ sĩ như ông thì mới được gọi là nghệ sĩ, những người với công việc thường ngày, họ làm hết mình với công việc của mình thì họ cũng là nghệ sĩ chân chính. Ông lái đò với nghệ thuật chèo đò vượt thác của mình, ông trở thành người nghệ sĩ chân chính. Nghề mà ông làm là một nghề mà trước Cách mạng không được coi trọng, bị xem thường. Nhưng qua đây, Nguyễn Tuân cũng cho ta thấy rằng đây không chỉ là một nghề chân chính, trong công việc ấy, ông làm trong sự im lặng như một sự cống hiến cho cách mạng, công việc ấy là công việc ông làm hàng ngày để kiếm kế sinh nhai để lo cho cả gia đình, không chỉ vậy mà còn làm đẹp cho xã hội. Trước công việc ấy, ông như một người anh hùng chính nghĩa đánh bại kẻ thù để tìm đến sự vang dội, oai hùng.

Chính lúc ấy, trong nghệ thuật chèo đò của mình, người lái đò còn được hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, đó là sau khi đánh trận thủy chiến, ông lái đò lại vào trong hang, mà mỗi khi ông đi là ông buộc một bu gà đằng sau. Đó không chỉ thể hiện đó là thời gian mà đó còn là gợi nhớ đến quê hương, nhớ đến mảnh đất sinh sống của mình. Trong cái hang ấy, tối và lạnh, ông đã đốt lửa và thấy như những làn khói của sông Đà. Cùng với con mắt quan sát tinh tế, người nông dân hiện lên như một vị thần sông nước, cùng với con thuyền bé nhỏ, như một vị tướng oai hùm giữa sông Đà dữ dội. Cũng chính có những con người như ông mà con thủy quái sông Đà mới được hàng phục, từ đó mà ta thấy cái mà Nguyễn Tuân thấy thật đẹp đẽ, một vẻ đẹp mà khó bắt gặp lần hai.

Nét đẹp của người lái đò thật mềm mại qua bút pháp của Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp ấy được thiên nhiên làm nên như một bức chân dung vững chãi đứng ở con sông Đà. Chất vàng mười mà ông khám phá như một nét độc đáo mà chưa có nhà văn nào đụng tới. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò được hiện lên là một người lao động linh hoạt, ông chính là con người tiêu biểu trong việc chế ngự thiên nhiên, để thiên nhiên phải hằng phục và phục vụ cho con người sau này. Việc làm cao cả được Nguyễn Tuân miêu tả sâu sắc làm nên nét độc đáo của tác phẩm.

Nguyễn Tuân là nhà văn “cả đời đi tìm cái đẹp”, sau chuyến đi Tây Bắc, nhà văn đã khám phá được “chất vàng mười” trong thiên nhiên và con người nơi ấy, thể hiện rõ nét qua hình tượng người lái đò sông Đà trong bút kí “Sông Đà”.

Trước hết, Nguyễn Tuân đã khám phá được ở con người lao động ấy vẻ đẹp của sự dũng cảm, kiên cường. Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa. Phải thấy được cái hùng vĩ, hiểm nguy của con thủy quái sông Đà, ta mới thấy được sự mưu trí dũng cảm của ông đò. Mở đầu bài là lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khẳng định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc Khẳng định cá tính độc đáo của. Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi. “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Ám ảnh, đe dọa con người. Vậy mà ông đò đã đối mặt với con thủy quái ấy suốt hơn 10 năm trời, chẳng hề ngại ngần đối mặt và chinh phục. Chỉ huy lèo lái con thuyền vượt qua những cửa ải hiểm nguy, dù đau nhưng vẫn cố nén vết thương, quả thực như một vị tướng gan dạ anh hùng.

Advertisement

Không chỉ kiên cường, dũng cảm, người lái đò còn mang vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài ba, cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò. Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được sự tài hoa khéo léo của ông đò.

Nguyễn Tuân đã tìm thấy được chất vàng mười trong con người Tây Bắc, họ là những người lao động vô danh nhưng lại mang trong mình một vẻ đẹp vừa anh hùng, vừa tài hoa đậm chất nghệ sĩ. Vẻ đẹp ấy chính là vẻ đẹp của thời đại mới, cuộc sống mới với bao tin tưởng, hy vọng.

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Nguyễn Tuân có sở trường về thể loại tùy bút. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc kết tinh được phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, được in trong tập “Sông Đà” (1960). Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động. Ở tùy bút này, ngoài hình tượng dòng sông Đà, hình tượng ông lái đò cũng là một hình tượng đặc sắc mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân.

Trước hết, ta phải hiểu chữ “vàng” trong câu nói của nhà văn không ứng với nghĩa đen. Ở đây, nhà văn muốn mượn của vàng (một thứ quý giá và đẹp đẽ) để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Nhưng vẻ đẹp và sự quý giá ấy không dễ tìm thấy, mà nó còn đang náu mình trong những vùng đất xa xôi. Nhà văn phải là người tìm kiếm, sàng lọc để phát hiện ra vẻ đẹp ấy , rồi bằng tài năng của mình mà bất tử hoá nó trong tác phẩm để “cống nạp”cho đời thường những “thỏi vàng mười” của thiên nhiên đất nước và con người. Ý kiến khẳng định thành công của Nguyễn Tuân trong việc khám phá và xây dựng vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong cuộc sống lao động bình dị.

Thật vậy, trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra“chất vàng” quý báu của một dòng sông: “ Đà giang độc bắc lưu” là một dòng sông hung bạo, dòng sông của sức sống mãnh liệt. Tính cách hung bạo của dòng sông được cảm nhận ở những đoạn sông đầy đá chìm và thác dữ. Nhưng bên cạnh sự hung bạo ấy ta vẫn thấy ở sông Đà một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Cái dữ dội hùng vĩ của sông Đà trước hết là ở cảnh “ đá bờ sông dựng thành” rồi đến “ nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm”, rồi những hút nước xoáy tít”….

Đặc biệt, trong vẻ dữ dội, man dại của sông Đà, ta thấy cái quý giá của sức nước, thấy hiện ra những “tuốc bin thuỷ điện” .Đó chính là chất “vàng” quý giá của tài nguyên thiên nhiên đất nước. Cho nên, cái quý giá ở đây chính là một tiềm năng lớn lao ngay trong vẻ hoang dại, phóng khoáng và sức mạnh bạo liệt của dòng sông.

Nhưng chất “vàng” của sông nước Tây Bắc không chỉ ở sự quý giá mà còn ở vẻ đẹp của sông Đà. Đó là hình ảnh của một dòng sông thơ mộng, trữ tình với hình dáng mềm mại “tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, hay như một “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải…”. Cảnh sắc hai bên bờ sông cũng rất đỗi thơ mộng “ như bờ tiền sử”, “hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”…Cái hay của nhà văn là cách dùng nghệ thuật so sánh dồn dập đã làm hiện lên một cách sinh động vẻ đẹp của dòng sông.

Cùng với sự quý giá của thiên nhiên là sự quý giá của người dân lao động Tây Bắc. Chất “vàng mười”quý giá của người lao động trong bài tùy bút chính là hình ảnh ông lái đò trên sông. Trong câu nói của mình, Nguyễn Tuân có dụng ý khi dùng chữ “vàng” để nói về màu sắc sông núi và chữ “vàng mười” để chỉ vẻ đẹp và giá trị của con người lao động.Đồng thời, nhà văn cũng ngầm ý rằng :cái quý báu trong phẩm chất , tài năng của con người phải được tôi luyện trong cuộc sống, giống như vàng được tôi luyện trong lửa vậy. Vẻ đẹp tài nguyên Tây Bắc thật quý giá.Nhưng con người Tây Bắc phải đẹp hơn, quý giá hơn trong việc chinh phục và cải tạo thiên nhiên.

Trong tác phẩm, con người mang chất “vàng mười” quý giá ấy lại là một con người lao động bình thường, một người vô danh là nghề lái đò dọc trên sông Đà. Nhưng con người vô danh ấy nhờ lao động, nhờ chinh phục , chế ngự thiên nhiên hung bạo như sông nước Đà giang đã trở nên lớn lao , kỳ vĩ:

Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của người lao động bình thường: (không tên, tuổi, quê quán. Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân. Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.

Ông lái đò là người từng trải trong nghề. Ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…

Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng.

Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà

Ông lái đò là người mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống lao động hàng ngày. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Con sông Đà hung hãn tạo ra một thách thức ghê gớm cho người lái đò.

Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đạt nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.

Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.

Ông lí đò đích thực là một nghệ sĩ tài hoa. Nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa: sự điêu luyện trong nghề khi lái đò vượt qua 3 thạch trận); trí nhớ siêu phàm, nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do; phong thái nghệ sĩ sau cuộc chiến đấu với sông Đà.

Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Đó thực sự là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” đến trăm lần.

Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới. Ông rất giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí. Đó là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

Vẻ đẹp của người lái đò thể hiện ở tài nghệ của một “tay lái ra hoa”. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tung ra một “đạo binh ngôn từ” hùng hậu để miêu tả cho thật hấp dẫn và hùng tráng cuộc thuỷ chiến sông Đà. Trong những cuộc thuỷ chiến ấy, ông đò đã bằng sự dũng cảm, phi thường, mưu trí để vượt qua hết vòng vi này đến vòng vi khác.Ông giành thế chủ động bởi ông ông lái đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”.Ông lái đò đã cưỡi lên thác ghềnh của sông Đà như một lão tướng dày dạn kinh nghiệm .Hình ảnh ông đò như mang dáng dấp của những anh hùng trong các thiên anh hùng ca thời cổ đại.

Chất “vàng mười” trong tài trí con người ở đây còn là sự dũng cảm , gan dạ, tài ba của người cầm lái mà đường lái đạt đến độ điêu luyện, siêu phàm: ông “ghì cương lái miết phong nhanh vút vút cửa ngoài, cửa trong”, “thuyền như một mũi tên tre”…Ông lái đò như một nghệ sĩ tài ba với một nghệ thuật cao cường đang luồn tránh, lái lượn trên dòng nước hung bạo của Đà giang.Tài nghệ siêu phàm ấy chính là thứ “vàng mười”ngời ngời tỏa sáng giữa thiên nhiên hùng vĩ của Tổ quốc.

“Người nghệ sĩ phải xâm nhập sâu vào đời sống nhân dân. Anh phải nhập đến một mức độ nào đó thơ mới hình thành. Thơ chỉ tràn ra khi trong tim anh cuộc sống đã thật ứ đầy”. Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc. Ông đích thực là “thứ vàng mười đã qua thử lửa”, một chất vàng ròng đáng quý của miền Tây Bắc hùng vĩ.

Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Với tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Nói Sách Là Người Bạn Lớn Của Con Người Dàn Ý & 12 Bài Văn Mẫu Lớp 7 trên website Xsye.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!