Bạn đang xem bài viết Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Truyện (Dàn Ý + 4 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 10 được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Xsye.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tên tác giả,…) và ý kiến khái quát của người viết về tác phẩm. Chia sẻ với người đọc lí do bạn lựa chọn tác phẩm này để phân tích, đánh giá, điều khiến bạn yêu thích tác phẩm.
2. Thân bài:
+ Tóm tắt nội dung chính của truyện.
+ Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi phân tích, đánh giá đều cần có những chi tiết tiêu biểu được dẫn ra từ tác phẩm.
3. Kết bài:
Tóm lược các nhận định trong phần thân bài, khẳng định giá trị của tác phẩm, đưa ra một số ý tưởng mở rộng, …
Văn học từ bao đời nay, là bản trường ca hát về những mảnh đất xa xôi ngoài chân trời, nơi mà những vẻ đẹp và lí tưởng con người luôn hướng đến. Con người sáng tác ra văn chương để vẽ về những vẻ đẹp của đời sống, nơi con người thực sự thăng hoa và được tôn vinh trong chính bức tranh nghệ thuật mà họ tạo nên . Nghệ thuật luôn là tấm gương chân thật nhất luôn hướng đời mình đến con người, họ là trung tâm của những sức mạnh trên thế giới này, họ có thể làm ra những điều phi thường, họ là những người có lí tưởng cao đẹp. Bởi vì vậy hình tượng con người trong vũ trụ luôn đi đôi với nghệ thuật sáng tạo, đặc biệt là những tác phẩm văn chương chân chính, thứ đã nuôi dưỡng và tạo ra những vẻ đẹp ấy. Không phải từ đời sống mà có thể tạo ra những giá trị hay, mà phải trải qua một quá trình gạn lọc, chưng cất từ trên những trang giấy để từ đó mới xuất hiện những điểm sáng của nghệ thuật được. Lí tưởng sống của con người luôn được đề cao, bởi nó mang tầm vóc của những điều phi thường, là yếu tố cơ bản để kiến tạo nên những điều kì diệu. Phải có lí tưởng, phải có khao khát, ước vọng mới có thể làm nên những việc lớn, chính vì vậy đây là yếu tố được khai thác nhiều trong sáng tạo nghệ thuật. Những lí tưởng bước ra từ bức màn của nghệ thuật luôn là những gì đẹp nhất, không chỉ hình thành từ một cá nhân trong cộng đồng mà nó còn là của tập thể chung. Sử thi Đăm Săn của người dân tộc Ê đê đã thực sự thành công khi tái hiện hình ảnh người anh hùng trong xã hội với những lí tưởng cao đẹp khi ước mơ bắt Nữ thần Mặt Trời về làm vợ.
Sử thi là một thể loại văn học vô cùng thú vị, bởi nó mang nhiều yếu tố hoang đường kì ảo nhưng không đánh mất đi những giá trị vốn có, vì bên cạnh những yếu tố ấy những chất liệu để tạo nên một sử thi hay là nhân vật có thật, câu chuyện có thật. Những yếu tố kì ảo chỉ được thêm vào để làm nền và làm nổi bật sự phi thường của người anh hùng. Nhân vật trong sử thi là những người phi phàm đại diện cho lí tưởng cao đẹp của cả một cộng đồng, là người đi tiên phong để mở ra một cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp cho mọi người. Một người anh hùng chắc chắn phải lập ra được những chiến công lẫy lừng, vang danh, đó không chỉ là sự hào nhoáng mà còn là những ý nghĩa sâu xa và thế giới nghệ thuật muốn đề cập đến. Đến với Sử thi Đăm Săn, đặc biệt là đoạn trích đi chinh phục nữ thần Mặt Trời, người anh hùng ấy hiện lên với đầy đủ những vẻ sáng của cuộc đời, đó là khát khao của con người về tình yêu và hạnh phúc, về sự chinh phục thiên nhiên và vũ trụ rộng lớn. Chàng Đăm Săn là một hình mẫu cho những điều cao đẹp của một cộng đồng.
Người dân tộc Ê đê thuộc chế độ mẫu hệ, bởi vì vậy, chỉ có người vợ mới được bắt chồng chứ không có những người chồng được bắt vợ, hành động của Đăm Săn và kết quả của hành động ấy đã thể hiện rõ nét bản sắc dân tộc văn hoá truyền thống của người Ê đê, chính vì vậy tính lịch sử và văn hóa trong tác phẩm sử thi này rất cao và tỉ mỉ. Đăm Săn muốn chinh phục nữ thần mặt trời về làm vợ xuất phát từ mong muốn cho cuộc sống của cộng đồng trở nên ấm no hơn, bởi có được sức mạnh của nữ thần.
Vượt qua bao nhiêu là khó khăn cách trở, sự can ngăn của vợ, … Chàng Đăm Săn vẫn mang trong mình khát khao được gặp nữ thần mặt trời và bày tỏ mong muốn của mình. “Chàng đi hết rừng rậm đến núi xanh, có tranh xé tay, gai mây đâm chân, không màng ăn uống”, chàng cứ thế trên con chiến mã của mình vẫn tiếp tục lao như bay về phía nơi ở của nữ thần mặt trời với đầy khí thế hừng hực. Chàng phi ngựa như bay qua vùng đất Sáp Đen, chàng cưỡi trên con chiến mã ấy vượt qua không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu ngọn núi, người và người cứ thế lao vun vút như tên. Chẳng biết mấy ngày đem, Đăm Săn đã nhìn thấy cái chuồng nuôi trâu, cái bãi thả diều ở trời, khí thế hừng hực, lao đi trong không trung. Ta có thể thấy niềm tin trong người anh hùng ấy, anh tin tưởng vào sức mạnh và tài năng của mình, có thể giúp chàng lấy được nữ thần làm vợ, đó không phải là sự viển vông mà ngược lại càng làm cho Đăm Săn ra dáng một người anh hùng với sức mạnh phi thường thực thụ. Đó là lòng dũng cảm, sự quyết tâm và khát vọng của một người anh hùng mang trong mình những lí tưởng lớn lao và vững chãi. Trải qua những chặng đường gian nan, cuối cùng chàng đã đến được nơi ấy, trước mắt chàng là những cảnh vật mà trước giờ chưa bao giờ nhìn thấy ở buôn làng của mình. “Cầu thang trông như cái cầu vồng” , “cối giã gạo bằng vàng, chày cũng bằng vàng”, cái chày thì lấp lánh khiến Đăm Săn không khỏi ngạc nhiên, mình đã là một tù trưởng giàu có nhất ở buôn làng rồi, không thứ gì là không có, vậy mà ở đây nhiều điều mới lạ quá khiến chàng không rời mắt. Đăm Săn xuống ngựa rồi từ từ bước vào nha, khí thế người anh hùng dũng mãnh như toả ra thứ hào quang hào nhoáng lắm, ai ai cũng biết đến sự hiện diện của chàng. “Chàng vươn bước lên cầu thang thì trong nhà người ta đã nghe”, “Chàng vươn người trên sàn hiên thì trong nhà người ta đã nghe”, … sự vĩ đại trong từng hành động của Đăm Săn cũng khiến người ta biết đến. Chàng đi vào nhà rồi ngồi ở giữa gian như một vị thần, sự hiên ngang ấy khiến gia tớ trong nhà ai cũng nhìn, thế là đã đến tai của nữ thần mặt trời. Chàng Đăm Săn mặc một chiếc áo lụa thật đẹp, ở ngoài khoác một chiếc áo chiến trông oai hùng biết bao, “Lông chân như chải, lông đùi như chuốt”, “Tiếng nghe như trống gõ mõ”,… Các tù trường không một ai có một khí thế giống như vậy, cứ ngỡ là thần tiên ở trên trời.
Những người tôi tớ của nữ thần cứ hết người này đến người kia, những ánh mắt cứ chăm chăm vào Đăm Săn, càng làm cho chàng trở nên đẹp và dũng mãnh hơn, càng tô điểm thêm cho cốt cách của chàng. Nữ thần Mặt trời cũng không kém, nàng thay không biết bao nhiêu bộ váy để tiếp đón Đăm Săn, cuối cùng nàng cũng đã chọn được chiếc váy ưng ý, “Nàng mặc một váy ánh như sét, loáng như chớp”. úc này trông nữ thần như một vị tiên giáng trần, “Mái tóc vén bên tai trông thật là đẹp”, “Đi trông như diều bay liệng, như nước lững lờ trôi”, Chàng Đăm Săn khi thấy vẻ đẹp kiều diễm ấy lại càng mê mẩn hơn nữa, trước mặt chàng là một vị nữ thần vô cùng xinh đẹp và tài giỏi, “Thân hình như cái nụ tai, với một cái cổ như con công”. Những điều đó càng khiến cho Đăm Săn muốn chinh phục hơn nữa. Tiếng của nàng lanh lảnh khẻ hỏi Đăm Săn : “Hỡi con người trần thế, ngươi muốn gì”. Đăm Săn trả lời lại : “Tôi muốn có người nấu cơm canh tôi ăn, dệt khố áo tôi mặc”, chàng tỏ ý muốn lấy nữ thần mặt trời làm vợ mình, “muốn đưa nàng xuống trần làm juê, làm êm tai , làm chị em với Hơ Nhị, Hơ Bhị”, đứng trước sự xinh đẹp của nữ thần chàng không kiềm lòng nổi mà nói ra ước muốn trong suy nghĩ của mình, chàng dũng cảm bày tỏ và tin rằng nữ thần sẽ chấp nhận lời cầu hôn của mình. Những nữ thần lại kiếm cớ để từ chối lời cầu hôn ấy, “nếu ta đi thì lợn dưới gà trên, cọp tê giác,… sẽ chết hết”, “Chết cả người Khơ me, người Lào”, “Chết cả người Ê đê Ê ga”, “Cây trong rừng sẽ tuyệt diệt, cây trên rú sẽ chết khô” . Nữ thần một mực phủ nhận lời đề nghị của Đăm Săn, nàng từ chối một cách quyết liệt, “Thôi ngươi hãy đi lấy gùi nước về đi, Ta sắp ra đi đây”. Nhưng Đăm Săn vẫn vô cùng trung thành với cảm xúc của chính mình, chàng đã dùng cây chà gạc chẻ núi, phát rừng, giết bao nhiêu thú dữ, vượt ngàn khó khăn gian truân mới đến được đây, nói đi là đi được sao, chàng vẫn muốn nhận được sự chấp nhận của Nữ thần, “Tôi thương nàng da diết, lòng dạ tôi không nguôi, vì vậy tôi đã đến đây với nàng, muốn cùng nàng nên nghĩa vợ chồng, có lấy được nàng tôi mới về”. Sự quyết tâm và kiên định của Đăm Săn cho thấy chàng là một người hết sức mạnh mẽ và quyết đoán đối với suy nghĩ của mình, muốn làm gì thì chàng nhất định sẽ làm cho bằng được, đó cũng là một trong những yếu tố để kiến tạo nên một người anh hùng của cộng đồng.
Vậy là cuộc cầu hôn của Đăm Săn đã thất bại, Đăm Săn đã quyết định ra về mặc lời can ngăn của Nữ thần. Đăm Săn không cần sống hay chết, chàng cũng không cần ai cùng về, chàng một mình một ngựa phi như bay ra khỏi vùng đất của Mặt trời. Đất sáp đen đã dần nhão ra, chàng và chiến mã vẫn cứ phi, càng chậm dần chậm dần rồi biến mất trong khu rừng ấy. Người anh hùng ấy đã hy sinh vì những lí tưởng của chính mình. Chàng đã chết trong khát vọng với sự hiên ngang bất khuất, đó là dáng vẻ của một người anh hùng thực thụ. Cái chết đầy tính bi tráng của Đăm Săn nhuốm đầy màu sắc của bi kịch lịch sử và thời đại, đó là mâu thuẫn gay gắt giữa sự có hạn của những điều xung quanh, trái ngược với những khát vọng và lí tưởng vô hạn của người anh hùng sử thi. Hình ảnh người anh hùng ấy vẫn mãi mãi sống trong lòng người Ê đê, tồn tại mãi mãi trong những nét văn hoá lâu đời.
Truyện Sử thi về chàng Đăm Săn đậm đà bản sắc văn hoá truyền thống của người Ê đê. Trật tự mẫu quyền của dân tộc được thể hiện vô cùng sâu sắc qua những chi tiết của truyện, Đăm Săn không thể nào cầu hôn được nữ thần mặt trời chính là vì lí do ấy, những bản sắc văn hoá được in sâu vào trong tác phẩm nghệ thuật. Người anh hùng ấy khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, muốn chinh phục được nữ thần mặt trời để giúp đỡ cho người dân ở buôn làng, nhờ vào quyền năng của nàng có thể đem lại cho mọi người một cuộc sống tốt hơn nhưng tiếc thay chàng đã thất bại. Nhưng đó không phải là một sự thất bại hoàn toàn, tiếng thơm muôn đời của chàng Đăm Săn vì muốn đem lại hạnh phúc cho muôn dân mà hy sinh cuộc đời mình mãi mãi in sâu vào trong tâm trí của cộng đồng dân tộc, từ hình ảnh ấy là những bài học vô cùng quý giá về lí tưởng trong cuộc sống. Sống một cuộc đời giống như Đăm Săn không bao giờ lãng phí, đó là một cuộc đời mà nhiều người mơ ước, được vùng vẫy trong lí tưởng cao đẹp, được là người anh hùng của mọi người, mãi mãi về sau.
Truyện Đăm Săn đi chinh phục nữ thần mặt trời không chỉ có những ý nghĩa hay về nội dung mà những đặc sắc về nghệ thuật cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết để tạo nên một câu chuyện ý nghĩa như vậy. Nhân vật Đăm Săn được lí tưởng hoá, thần thánh hoá với những yếu tố kì ảo và sức mạnh phi thường đã thể hiện được những lí tưởng cao đẹp của một bậc anh hùng tượng trưng cho xã hội. Ngôn ngữ đối thoại của Đăm Săn và Nữ thần vô cùng chặt chẽ, linh hoạt, thể hiện được đầy đủ tính cách qua từng lời nói của nhân vật, chính vì vậy sử thi Đăm Săn trở nên vô cùng gần gũi với bạn đọc. Các yếu tố phiêu lưu, trải nghiệm trong chuyện cũng đã góp phần làm nên thành công, không chỉ là những bài học khô khan nhạt nhẽo, những điều nhân văn được thể hiện một cách kém hấp dẫn, câu chuyện lôi cuốn người đọc bằng những yếu tố hết sức màu sắc Sử thi, hết sức nghệ thuật và đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc người Ê đê.
Sử thi Đăm Săn đã mở ra trong cảm xúc của người đọc những điều tuyệt vời về cuộc đời của một người anh hùng dân tộc, một người anh hùng của thời đại. Lí tưởng trong người chàng là những thứ cao đẹp và đầy tính nhân văn, nó không chỉ góp phần thể hiện một đời sống phong phú dân tộc mà còn mang ý nghĩa giáo dục, thẩm mỹ vô cùng sâu sắc. Không đơn thuần là một người anh hùng bước ra từ những trang sử thi với những yếu tố kì ảo mà còn là một tượng đài kì vĩ về những điều tuyệt vời trong đời sống, người anh hùng văn hoá tạo dựng những nét đẹp phi thường cho cộng đồng, dân tộc.
1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân: là một nhà văn vô cùng tài hoa, uyên bác.
– Giới thiệu chung về tác phẩm “Chữ người tử tù”.
2. Thân bài:
Ý 1: Tình huống truyện đặc biệt
– Huấn Cao – một tử tù và viên quản ngục tình cờ gặp nhau và trở thành tri âm tri kỉ trong một hoàn cảnh đặc biệt: nhà lao nơi quản ngục làm việc.
Ý 2: Vẻ đẹp các nhân vật
* Nhân vật Huấn Cao
– Huấn Cao được lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát – một con người lỗi lạc thời trung đại.
– Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa:
Là người có “tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp”. Hơn thế mỗi con chữ của Huấn Cao còn chứa đựng khát vọng, hoài bão tung hoành cả đời người.
“Có được chữ ông Huấn là có được báu vật ở đời”.
⇒ Ca ngợi nét tài hoa của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình: kính trọng những con người tài hoa tài tử, trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân tộc
– Là anh hùng có khí phách hiên ngang
Thể hiện rõ nét qua các hành động: dỗ gông, thảm nhiên nhận rượu thịt
Trong mọi hoàn cảnh khí phách hiên ngang ấy vẫn không thay đổi
– Là người có thiên lương trong sáng, nhân cách cao cả
– Quan niệm cho chữ: trừ chỗ tri kỉ ngoài ra không vì vàng bạc châu báu mà cho chữ
+ Đối với quản ngục:
Khi chưa hiểu tấm lòng quản ngục Huấn Cao cho hắn là kẻ tiểu nhân tỏ ra khinh biệt ” Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn từ có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”.
Khi nhận ra tấm lòng quản ngục Huấn Cao không những cho chữ mà còn coi quản ngục là tri âm tri kỉ.
⇒ Huấn Cao là hình tượng của vẻ đẹp uy nghi giữa tài và tâm của người nghệ sĩ, của bậc anh hùng tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
* Nhân vật quản ngục
– Một tấm lòng biệt nhỡn liên tài.
– Có sở thích cao quý: chơi chữ.
Ý 3: Cảnh cho chữ – “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
– Không gian: ngục tối ẩm ướt, bẩn thỉu.
– Thời gian: đêm khuya.
– Dấu hiệu:
Người cho chữ là tử tù, người xin chữ là quản ngục
Người cho chữ mất tự do cổ đeo gông chân vướng xiềng nhưng vẫn hiên ngang, chủ động trong khi quản ngục – người xin chữ khúm núm, bị động.
Tử tù lại là người khuyên quản ngục.
– Sự hoán đổi ngôi vị:
Ý nghĩa lời khuyên của Huấn Cao: cái đẹp có thể sản sinh ở nơi đất chết, nơi tội ác ngự trị nhưng không thể sống chung với cái xấu cái ác. Người ta chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương.
Tác dụng: cảm hóa con người.
⇒ Điều lạ lùng ở đây không chỉ là thú chơi chữ tao nhã, thanh cao được thể hiện ở nơi tối tăm bẩn thỉu, người trổ tài là kẻ tử tù mà đặc biệt hơn là trong chốn lao tù tối tăm ấy cảnh cho chữ là sự thăng hoa của cái tài, cái đẹp, người tử tù sắp chết lại cảm hóa được viên quản ngục. Chính những điều này đã tạo nên hào quang rực rỡ, bất tử cho hình tượng Huấn Cao.
3. Kết bài:
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
Nội dung: Khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao, người nghệ sĩ tài hoa tài tử có thiên lương trong sáng, tiêu biểu cho kiểu người chỉ còn vang bóng trong thời kì trước cách mạng. Qua đó, ta thấy được quan niệm thẩm mĩ của nhà văn Nguyễn Tuân.
Đặc sắc nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo với màu sắc, không khí cổ xưa; thủ pháp đối lập được đẩy lên đến đỉnh cao; sử dụng ngôn ngữ góc cạnh, giàu tính tạo hình.
– Cảm nhận chung của em về giá trị tác phẩm.
Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.
Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.
Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.
Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
I. Mở bài:
– Giới thiệu về truyện kể: Truyện “Thần Trụ trời” thuộc nhóm thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ, muôn loài hay còn gọi là thần thoại suy nguyên được tác giả Nguyễn Đổng Chi sưu tầm.
– Trình bày khái quát nội dung cần phân tích, đánh giá: Chủ đề và hình thức nghệ thuật của truyện “Thần Trụ trời”.
II. Thân bài:
– Truyện “Thần Trụ trời” đã giải thích quá trình tạo lập thế giới: phân chia trời, đất và nguồn gốc hình thành các dạng địa hình như núi, đảo,… một cách sáng tạo qua các yếu tố kì ảo.
* Phân tích
– Giải thích quá trình tạo lập thế giới:
Giải thích sự phân chia trời, đất thông qua sự kiện thần Trụ trời xây cột đá chống trời.
Sự hình thành các dạng địa hình khác nhau: thần lại phá cột đi, lấy đất đá ném tung đi khắp nơi…”.
* Đánh giá:
Truyện “Thần Trụ trời” đã cho thấy khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng của con người trong buổi đầu sơ khai.
– Truyện đã xây dựng nhân vật Thần Trụ trời – vị thần sức mạnh siêu nhiên, thực hiện công việc phân chia trời và đất, tạo nên các dạng địa hình khác nhau.
– Thủ pháp cường điệu, phóng đại kết hợp với các chi tiết hư cấu tạo nên một câu chuyện đầy sức hấp dẫn và thuyết phục đối với người đọc.
III. Kết bài:
– Nêu ý nghĩa của tác phẩm đối với bản thân và người đọc.
“Thần Trụ trời” kể về thần Thần Trụ trời với sức mạnh phi thường đã phân chia bầu trời và mặt đất, dùng đất đá tạo nên núi, đảo,.. Qua đó, câu chuyện đã giải thích nguồn gốc của sự hình thành các sự vật trong tự nhiên một cách sáng tạo.
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ và tập Truyền kì mạn lục: Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI. Truyền kì mạn lục là tác phẩm xuất sắc của ông ghi chép những chuyện li kì trong nhân gian.
– Giới thiệu về tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”: Là một trong 20 truyện của tập truyền kì mạn lục kể về câu chuyện chức quan coi việc xử án ở đền Tản Viên.
II. Thân bài
1. Giới thiệu nhân vật Ngô Tử Văn.
– Tên: Ngô Tử Văn tên Soạn
– Quê quán: Huyện Yên Dũng đất Lạng Giang
– Tính tình: Khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không chịu được
→Cách giới thiệu trực tiếp ngắn gọn mang tính khẳng định gây chú ý người đọc
→Giọng điệu ngợi ca định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về những hành động tiếp theo của nhân vật
2. Cuộc đấu tranh ở trên trần gian của Ngô Tử Văn.
a. Hành động đốt đền
– Nguyên nhân đốt đền: Tức giận trước sự hống hách, lộng hành làm hại dân chúng của hồn ma tên tướng giặc
– Hành động:
+ Tắm gội chay sạch, khấn trời
→Đốt đền là hành động có chủ đích, cẩn trọng, không phải hành động bộc phát
+ Châm lửa đốt đền, vung tay không sợ gì cả mặc cho mọi người lắc đầu lè lưỡi
→Hành động công khai đầy dũng cảm, quyết liệt.
⇒ Thể hiện sự khẳng khái, chính trực, kiên cường, dũng cảm của trí thức Việt
⇒ Thể hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ qua việc diệt trừ hồn ma tên tướng giặc.
b. Cuộc gặp gỡ của Ngô Tử Văn và bách hộ họ Thôi
– Sau khi đốt đền, Tử Văn trở về bị “sốt nóng sốt rét”.
– Hình ảnh hồn ma tướng giặc:
+ Diện mạo khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ
+ Lời nói: Mắng mỏ đe dọa, bắt Ngô Tử Văn lập lại đền.
→Đây là một kẻ xảo trá, tham lam, hung ác
– Thái độ của Ngô Tử văn: Ung dung, mặc kệ vẫn ngôi ngất ngưởng, tự nhiên
→Thái độ của con người tự tin vào việc làm chính nghĩa.
c. Cuộc gặp gỡ của Ngô Tử Văn với thổ công
– Thổ công: Kể lại toàn bộ sự việc mình bị hại để Tử Văn thấy được sự xảo trá tác oai tác quái của tên tướng giặc, lo lắng cho Tử Văn
→Thổ công biết sự tồn tại của cái xấu nhưng cam chịu và chấp nhận, không dám đấu tranh để đòi lại công lí
– Thổ công bày cách để Ngô Tử Văn đối phó với tên hung thần và đối chất với Diêm Vương
→Tạo ra sự phát triển logic cho câu chuyện.
→Tử Văn không còn chiến đấu đơn độc mà đã có sự hỗ trợ của thổ công.
3. Cuộc đấu tranh giành lại công lí ở Minh Ti.
a. Chặng 1: Tử Văn đối đầu với những thử thách
– Tên bách hộ họ Thôi: Tỏ vẻ khép nép, đáng thương, để kêu oan
– Diêm Vương: Nghe theo lời tố cáo của tên tướng giặc, trách mắng, phán Tử Văn ngoan cố, bướng bỉnh
– Thái độ của Tử Văn:
+ Điềm nhiên, không kinh hãi trước cảnh Minh ti rùng rợn
+ Một mực kêu oan, điềm tĩnh, cứng cỏi trước uy quyền của Diêm Vương và sự xảo trá giả tạo của tên tướng giặc
b. Chặng 2: Tử Văn vạch trần tội ác của tên tướng giặc
– Khi tranh cãi, biết mình yếu thế, tên bách hộ Thôi sợ hãi, tỏ vẻ giả nhân giả nghĩa xin giảm án cho Tử Văn.
Advertisement
– Tử Văn không chịu bỏ cuộc, xin Diêm Vương cho người xuống tản Viên chứng thực
– Diêm Vương: Chứng thức và tin lời Ngô Tử Văn, xử cho Tử Văn thắng kiện.
→Cuộc đấu tranh đã bộc lộ khí phách, sự thông minh, cam đảm, quyết liệt của Ngô Tử Văn trên hành trình đòi lại công lí
→Làm rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa, xảo trá, giả tạo của hồn ma tên tướng giặc.
→Kết quả của cuộc chiến cho thấy ước mơ về sự công bằng của nhân dân.
4. Ngô Tử Văn nhận chức phán sự đền Tản Viên
– Là phẩn thưởng cho sự khẳng khái, cương trực và dũng cảm của Ngô Tử Văn.
– Diệt trừ tận gốc cái ác, lấy lại danh dự cho thổ công, làm sáng tỏ nỗi oan khuất cho Ngô Tử Văn
– Gửi gắm khát vọng của nhân dân về một vị quan chính trực, thanh liêm.
– Cuộc gặp gỡ giữa quan phán sự và người quen cũ: Thể hiện niềm tin về một vị quan tốt, giúp nước, giúp dân.
5. Ý nghĩa, bài học
a. Ý nghĩa của truyện
– Thể hiện niềm tin vào công lí, ước mơ về một xã hội công bằng ở hiền gặp lành, ác giả ác báo
– Phản ánh hiện tượng oan trái, bất công của xã hội đương thời
– Phê phán thói tham nhũng, lộng quyền của quan lại đương thời
– Phê phán sự hèn nhát không dám đứng lên đấu tranh bảo vệ lẽ phải của một bộ phận quan lại và nhân dân
b. Bài học
– Cần dũng cảm đứng lên đấu tranh bảo vệ công lí và lẽ phải.
– Có niềm tin vào lẽ phải: Thiện thắng ác
6. Đặc sắc nghệ thuật
– Sự kết hợp giữa bút pháp thực và ảo, mượn truyện kì ảo để nói chuyện thực ở đời vì thế nó mang giá trị thời đại
– Cốt truyện kịch tính, hấp dẫn với kết cấu logic có mở đầu, thắt nút, cao trào, mở nút
– Lựa chọn tình tiết li kì, lôi cuốn
– Xây dựng tính cách nhân vật qua lời nói và hành động
III. Kết bài
– Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của truyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”
– Trình bày suy nghĩ của bản thân về tác phẩm: Đem lại sự thích thú cho người đọc bởi người tốt đã được đền đáp xứng đáng, kẻ ác bị trừng trị
“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Dữ trong nền văn học Việt Nam mà cụ thể hơn là văn học thời kì trung đại.Tác phẩm này ra đời vào khoảng thời gian nửa đầu thế kỉ XVI, bao gồm 20 truyện được viết bằng chữ Hán.Một trong những truyện tiêu biểu của “Truyền kì mạn lục” là “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”.
Truyền kì là “một thể văn xuôi tự sự thời trung đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường.Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự tương giao”.Đó cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với người đọc bao thế hệ.Ẩn đằng sau những chi tiết hoang đường ấy là những vấn đề then chốt của hiện thực, những quan niệm, tư tưởng và thái độ của tác giả.”Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” kể về việc kẻ sĩ Ngô Tử Văn đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận làm yêu làm quái, gây hại cho dân lành.Hắn đe dọa và kiện Tử Văn ở Minh ti. Được Thổ công mách bảo cách đối phó với tên hung thần ấy nên khi bị giải đi xuống âm phủ Ngô Tử Văn đã vạch trần những tội ác mà hồn viên Bách hộ gây ra. Kẻ ác bị trừng phạt, Ngô Tử Văn được sống lại.Nhờ sự tiến cử của Thổ công mà chàng được nhận một chức phán sự ở đền Tản Viên.Sau đó, Tử Văn “thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất”.
Nhân vật Ngô Tử Văn được Nguyễn Dữ giới thiệu một cách trực tiếp bằng những lời văn ngắn gọn: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”.Đó cũng là những lời văn thể hiện thái độ ngợi khen về tính cách, phẩm chất con người Ngô Tử Văn của tác giả.Tức giận vì không thể chịu được sự gian tà nên chàng đã đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận “làm yêu làm quái trong dân gian”.Trước khi thực hiện hành động này, Tử Văn đã “tắm gội sạch sẽ, khấn trời” rồi châm lửa đốt. Trong khi tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ thay cho chàng thì chàng “vẫn vung tay không cần gì cả”, không mảy may suy nghĩ đến hậu quả khôn lường. Hành động đốt đền của Tử Văn đã thể hiện sự quyết liệt, dũng cảm, ngay thẳng, chính trực của một kẻ sĩ trong xã hội.Chàng tiêu diệt cái ác vì muốn mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
Ngỡ tưởng chỉ cần đốt đền là mọi việc xong xuôi nhưng Ngô Tử Văn “thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”. Chàng thấy hồn ma tướng giặc đến đòi lại đền và nói những lời đe dọa: “Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ”.Trước những lời đe dọa ấy, Tử Văn không chút run sợ, “ngồi ngất ngưởng tự nhiên” bởi đấu tranh cho cái thiện chưa bao giờ là việc làm sai trái. Hồn ma viên Bách hộ họ Thôi có ngoại hình cao lớn, khôi ngô, trên đầu đội mũ trụ, nói những lời đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ hung ác, gian xảo. Khi sống, hắn theo Mộc Thạnh sang “lấn cướp” nước ta, đến khi chết đi trở thành hồn ma thì hắn lại chiếm đền của Thổ công làm nơi trú ngụ cho mình. Những lời đạo lí giả dối không thể che giấu đi bản chất xảo trá, bạo tàn của hắn.Ngô Tử Văn tin rằng hành động của mình là đúng, là việc chính nghĩa nên làm để bảo vệ cuộc sống của nhân dân nước Việt.
Nhờ có cuộc gặp gỡ với Thổ công mà Tử Văn thấy rõ được những hành động “hung yêu tác quái”, quấy rầy hại dân của hồn ma tướng giặc. Thổ công bày cách giúp Tử Văn “khỏi phải chết một cách oan uổng” khi bị hồn ma kiện ở dưới chốn Minh ti.Chàng bị hai tên quỷ sứ bắt xuống dưới âm phủ. Đó là một không gian đáng sợ đến mức ghê rợn: “gió tanh sông xám, hơi lạnh thấu xương”, “mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác”,…Cảnh tượng ấy không làm cho Tử Văn khiếp sợ, chàng rất cứng cỏi, “không chịu nhún nhường” trước những lời buộc tội của hồn ma tướng giặc. Cuộc cãi cọ của Tử Văn và hồn ma tướng giặc mãi chưa phân phải trái nên Tử Văn đã xin Diêm Vương “đem tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi” để xác nhận sự thật, phân xử cho công bằng. Thấy vậy, người đội mũ trụ đã có những lời nói đỡ cho Tử Văn: “Gã kia một kẻ học trò,thật là ngu bướng,quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa.Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh”.Thoạt đầu người đọc ngỡ tưởng đó là lòng tốt của hồn ma tướng giặc nhưng thực chất đó chỉ là cách mà hắn tự bao biện, bênh vực cho chính mình.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” hấp dẫn, lôi cuốn người đọc bởi các chi tiết kì ảo, có sự đan xen các câu chuyện về con người, ma quỷ, chuyện trần gian, địa ngục, chuyện chết đi và sống lại của Ngô Tử Văn,…Chi tiết Diêm Vương xử kiện ở dưới âm phủ đã thể hiện niềm tin của con người vào công lí xã hội. Nếu trên cõi trần gian cái ác có thể hoành hành, không bị trừng trị thì xuống dưới âm phủ mọi tội ác đều bị trừng trị thích đáng. Chi tiết này đã đẩy xung đột truyện lên cao trào để Ngô Tử Văn có cơ hội bộc lộ sự cương trực và bản lĩnh của mình. Đồng thời cũng có ý nghĩa giáo dục ý thức sống và hành động của con người, con người hãy sống hướng thiện, làm theo lẽ phải bởi “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ đã ngợi ca sự cương trực, khảng khái và bản lĩnh chống lại cái ác, bảo vệ lẽ phải của Ngô Tử Văn. Chàng là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp trí thức của nước ta lúc bấy giờ dũng cảm đấu tranh với cái ác. Bên cạnh đó, truyện cũng thể hiện niềm tin tưởng của tác giả Nguyễn Dữ vào công lí và chính nghĩa trong xã hội. Đó là lí do mà “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” vẫn còn vẹn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Bài Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên 2 Dàn Ý & 14 Bài Văn Mẫu Hay Lớp 10
Dàn ý phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
Dàn ý số 1
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ và tập Truyền kì mạn lục: Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI. Truyền kì mạn lục là tác phẩm xuất sắc của ông ghi chép những chuyện li kì trong nhân gian.
Giới thiệu về tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”: Là một trong 20 truyện của tập truyền kì mạn lục kể về câu chuyện chức quan coi việc xử án ở đền Tản Viên.
II. Thân bài
1. Giới thiệu nhân vật Ngô Tử Văn.
– Tên: Ngô Tử Văn tên Soạn
– Quê quán: Huyện Yên Dũng đất Lạng Giang
– Tính tình: Khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không chịu được
→Cách giới thiệu trực tiếp ngắn gọn mang tính khẳng định gây chú ý người đọc
→Giọng điệu ngợi ca định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về những hành động tiếp theo của nhân vật
2. Cuộc đấu tranh ở trên trần gian của Ngô Tử Văn.
a. Hành động đốt đền
– Nguyên nhân đốt đền: Tức giận trước sự hống hách, lộng hành làm hại dân chúng của hồn ma tên tướng giặc
– Hành động:
+ Tắm gội chay sạch, khấn trời
→Đốt đền là hành động có chủ đích, cẩn trọng, không phải hành động bộc phát
+ Châm lửa đốt đền, vung tay không sợ gì cả mặc cho mọi người lắc đầu lè lưỡi
→Hành động công khai đầy dũng cảm, quyết liệt.
⇒ Thể hiện sự khẳng khái, chính trực, kiên cường, dũng cảm của trí thức Việt
⇒ Thể hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ qua việc diệt trừ hồn ma tên tướng giặc.
b. Cuộc gặp gỡ của Ngô Tử Văn và bách hộ họ Thôi
– Sau khi đốt đền, Tử Văn trở về bị “sốt nóng sốt rét”.
– Hình ảnh hồn ma tướng giặc:
Diện mạo khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ
Lời nói: Mắng mỏ đe dọa, bắt Ngô Tử Văn lập lại đền.
→Đây là một kẻ xảo trá, tham lam, hung ác
– Thái độ của Ngô Tử văn: Ung dung, mặc kệ vẫn ngôi ngất ngưởng, tự nhiên
→Thái độ của con người tự tin vào việc làm chính nghĩa.
c. Cuộc gặp gỡ của Ngô Tử Văn với thổ công
– Thổ công: Kể lại toàn bộ sự việc mình bị hại để Tử Văn thấy được sự xảo trá tác oai tác quái của tên tướng giặc, lo lắng cho Tử Văn
→Thổ công biết sự tồn tại của cái xấu nhưng cam chịu và chấp nhận, không dám đấu tranh để đòi lại công lí
– Thổ công bày cách để Ngô Tử Văn đối phó với tên hung thần và đối chất với Diêm Vương
→Tạo ra sự phát triển logic cho câu chuyện.
→Tử Văn không còn chiến đấu đơn độc mà đã có sự hỗ trợ của thổ công.
3. Cuộc đấu tranh giành lại công lí ở Minh Ti.
a. Chặng 1: Tử Văn đối đầu với những thử thách
– Tên bách hộ họ Thôi: Tỏ vẻ khép nép, đáng thương, để kêu oan
– Diêm Vương: Nghe theo lời tố cáo của tên tướng giặc, trách mắng, phán Tử Văn ngoan cố, bướng bỉnh
– Thái độ của Tử Văn:
Điềm nhiên, không kinh hãi trước cảnh Minh ti rùng rợn
Một mực kêu oan, điềm tĩnh, cứng cỏi trước uy quyền của Diêm Vương và sự xảo trá giả tạo của tên tướng giặc
b. Chặng 2: Tử Văn vạch trần tội ác của tên tướng giặc
– Khi tranh cãi, biết mình yếu thế, tên bách hộ Thôi sợ hãi, tỏ vẻ giả nhân giả nghĩa xin giảm án cho Tử Văn.
– Tử Văn không chịu bỏ cuộc, xin Diêm Vương cho người xuống tản Viên chứng thực
– Diêm Vương: Chứng thức và tin lời Ngô Tử Văn, xử cho Tử Văn thắng kiện.
→Cuộc đấu tranh đã bộc lộ khí phách, sự thông minh, cam đảm, quyết liệt của Ngô Tử Văn trên hành trình đòi lại công lí
→Làm rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa, xảo trá, giả tạo của hồn ma tên tướng giặc.
→Kết quả của cuộc chiến cho thấy ước mơ về sự công bằng của nhân dân.
4. Ngô Tử Văn nhận chức phán sự đền Tản Viên
– Là phần thưởng cho sự khẳng khái, cương trực và dũng cảm của Ngô Tử Văn.
– Diệt trừ tận gốc cái ác, lấy lại danh dự cho thổ công, làm sáng tỏ nỗi oan khuất cho Ngô Tử Văn
– Gửi gắm khát vọng của nhân dân về một vị quan chính trực, thanh liêm.
– Cuộc gặp gỡ giữa quan phán sự và người quen cũ: Thể hiện niềm tin về một vị quan tốt, giúp nước, giúp dân.
5. Ý nghĩa, bài học
a. Ý nghĩa của truyện
Thể hiện niềm tin vào công lí, ước mơ về một xã hội công bằng ở hiền gặp lành, ác giả ác báo
Phản ánh hiện tượng oan trái, bất công của xã hội đương thời
Phê phán thói tham nhũng, lộng quyền của quan lại đương thời
Phê phán sự hèn nhát không dám đứng lên đấu tranh bảo vệ lẽ phải của một bộ phận quan lại và nhân dân
b. Bài học
Cần dũng cảm đứng lên đấu tranh bảo vệ công lí và lẽ phải.
Có niềm tin vào lẽ phải: Thiện thắng ác
6. Đặc sắc nghệ thuật
Sự kết hợp giữa bút pháp thực và ảo, mượn truyện kì ảo để nói chuyện thực ở đời vì thế nó mang giá trị thời đại
Cốt truyện kịch tính, hấp dẫn với kết cấu logic có mở đầu, thắt nút, cao trào, mở nút
Lựa chọn tình tiết li kì, lôi cuốn
Xây dựng tính cách nhân vật qua lời nói và hành động
III. Kết bài
Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của truyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”
Trình bày suy nghĩ của bản thân về tác phẩm: Đem lại sự thích thú cho người đọc bởi người tốt đã được đền đáp xứng đáng, kẻ ác bị trừng trị
Dàn ý số 2
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác phẩm Truyền kì mạn lục và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
2. Thân bài
a. Giới thiệu về thể loại truyền kì và nội dung của tác phẩm
– Truyền kì: Văn xuôi tự sự, phản ánh hiện thực qua những yếu tố hoang đường, thể hiện quan niệm của tác giả
– Nội dung tác phẩm:
Kể về Ngô Tử Văn và hành động đốt đền của tên tướng bại trận phương bắc họ Thôi đang tác quái, gây hại cho dân.
Hắn đe dọa và kiện chàng ở Minh ty. Chàng được Thổ thần chỉ cách nên đã vạch trần được tội ác của tên tướng giặc khiến hắn phải chịu trừng phạt.
Sau này nhờ tiến cử của Thổ thần, chàng được nhận chức phán sự ở đền Tản Viên.
b. Giới thiệu về nhân vật Ngô Tử Văn
– Họ tên: Tên Soạn, họ Ngô
– Quê: Huyện Yên Dũng, đất Lang Giang.
– Tính cách: khẳng khái, nóng nảy, là người cương phương, thấy gian tà không chịu được.
c. Cuộc đấu tranh nơi trần gian của Ngô Tử Văn
– Hành động châm lửa đốt đền:
– Nguyên nhân: Do tức giận sự hoành hành, hống hách của tên tướng giặc bại trận họ Thôi, làm hại tới dân chúng “Tử Văn rất …đốt đền”.
+ Diễn biến:
– Cuộc gặp gỡ với tên tướng Bách hộ họ Thôi:
Sau khi đốt đền, Ngô Tử Văn “thấy trong mình khó chịu …sốt rét”
Đối lập với tên tướng, Ngô Tử Văn “mặc kệ … tự nhiên”, thái độ ung dung, ngạo nghễ, tự tin vào việc làm của mình.
– Cuộc gặp với Thổ thần:
Tử Văn trách Thổ thần nhu nhược, thế nhưng Thổ thần tuy là thần tiên nhưng phải cam chịu, chấp nhận, không dám đấu tranh vì “những đền miếu gần quanh … bênh nó cả”.
+ Sau đó, Thổ thần bày cách cho Tử Văn tâu kiện với Diêm vương và cách đối phó với tên tướng giặc.
d. Cuộc đấu tranh giành công lý ở Minh ty
– Ngô Tử Văn phải đương đầu với thử thách:
Tại điện, tên tướng giặc khép nép, tỏ vẻ đáng thương, kêu oan – Tử Văn bị Diêm vương trách mắng, luận tội “hỗn láo”, trách mắng chàng ngoan cố, bướng bỉnh.
Thế nhưng, thái độ của Ngô Tử Văn: vẫn điềm nhiên, không hề kinh hãi mà một mực cứng cỏi kêu oan, tự tin trước những lời luận tội của Diêm Vương và lời giảo biện của tên tướng giặc.
– Chàng vạch trần tội ác của tên tướng họ Thôi:
e. Ngô Tử Văn nhận chức phán sự đền Tản Viên
– Đây là phần thưởng to lớn dành cho Ngô Tử Văn vì hành động trượng nghĩa, ý chí gan dạ, khẳng khái của mình.
– Hành động diệt trừ tên tướng giặc còn là hành động diệt trừ tận gốc cái ác “mộ của người tướng …như cám vậy”, lấy lại danh dự cho Thổ thần, minh oan cho hành động “đốt đền” của chàng.
– Đây còn là niềm ước vọng của nhân dân về một vị quan thanh liêm, chính trực, ước mơ về công bằng công lý.
f. Ý nghĩa và bài học:
– Ý nghĩa:
Thể hiện niềm tin của nhân dân vào công bằng công lý giữa xã hội.
Phản ánh sự giả tạo, xáo trá của một bộ phận con người trong xã hội đương thời cùng những oan trái, bất công không thể tỏ bày.
Phản ánh sự tham lam, lộng quyền, nhận hối lộ của đám quan lại trong xã hội xưa.
Phê phán sự hèn nhát, nhu nhược, không dám đấu tranh đòi quyền lợi, bảo vệ lẽ phải của một bộ phận quan lại và đa số người dân đương thời.
Ca ngợi sự dũng cảm, chính trực, khẳng khái của những người dân bình thường trong xã hội phong kiến.
– Bài học:
Cần dũng cảm, kiên cường, đứng lên đấu tranh cho lẽ phải, công lý.
Niềm tin về cuộc sống ở hiền thì sẽ gặp lành, niềm tin vào công lý và lẽ phải.
g. Đặc sắc nghệ thuật:
– Cốt truyện li kì, cuốn hút người đọc, mang tính logic cao, có cao trào
– Tình tiết lôi cuốn, giọng văn tự nhiên, chân thành, giản dị
3. Kết bài
– Khẳng định lại ý nghĩa và nội dung mà tác giả muốn gửi gắm.
Phân tích bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 1Nguyễn Dữ là một nhà Nho sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Ông là tác giả của bộ Truyền kỳ mạn lục lưu truyền trong dân gian từ thời Lý cho tới thời Lê sơ. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng nhằm phơi bày và lên án. Nổi bật hơn cả trong số đó là Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.
Ngô Tử Văn với chân dung và hành động là nhân vật tiền đề dẫn vào câu chuyện. Nhiều lần chứng kiến đến mức không chịu được sự quái đản của hồn ma tên tướng giặc nên anh đã suy nghĩ, tính toán và kết quả là đốt đền thờ của hắn nhằm mục đích cao cả muốn vì dân diệt bạo. Khi tất cả đều e dè, sợ hãi thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung hành động điều mà không ai dám làm, đó là đốt đền. Và đó cũng là hành động châm ngòi nổ cho một cuộc chiến giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận, tên hung thần nổi giận rồi uy hiếp sẽ kiện Tử Văn dưới âm phủ. Thế nhưng, người tốt thì có quý nhân phù trợ, Tử Văn được ân trên giúp đỡ để biết tội ác và có được cách để trừng trị tên hung bạo này. Tại phiên tòa dưới âm phủ, Tử Văn đã kiên quyết, dũng cảm luận tội, vạch trần tội lỗi của kẻ hung thần mà không hề e dè, sợ hãi. Dù mặt đối mặt với Diêm vương trong tình thế đuối lí vẫn giữ giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Cuối cùng, bằng tinh thần đấu tranh quyết liệt Tử Văn đã chiến thắng, cái thiện cuối cùng cũng chiến thắng, còn cái ác ắt phải bị trừng trị. Kết thúc Tử Văn được tín nhiệm và phong chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ công lý. Đó là cái giá, là kết cục cho sự bạc nhược của hồn ma tướng giặc xảo trá. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.
Những yếu tố li kì đã tạo hiệu ứng thu hút sự chú ý của bạn đọc theo dõi diễn biến câu chuyện. Qua việc sử dụng yếu tố hoang đường, kì ảo, Nguyễn Dữ cũng thể hiện quan điểm rằng miền trần gian cũng như miền địa ngục, cõi âm cũng hòa với cõi trần, cõi âm ấy chính là chiếc bóng của hiện thực đời sống. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” vì thế đã vẽ lên bức tranh hiện thực của xã hội đương thời, nơi cái xấu, cái ác trở nên lẫn lộn khi người đại diện cho lẽ phải lại mang bộ mặt tráo trở, đáng khinh, bất lương, vô nhân đạo. Không chỉ vậy, truyện còn là tiếng ca cho những anh hùng gan góc, kiên cường, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng đấu tranh vì lí tưởng bảo vệ lẽ phải qua hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn.
Kết thúc tác phẩm là chiến thắng của Ngô Tử Văn hay chính là sự vẻ vang khi cái thiện đã đẩy lùi cái xấu, cái ác. Điều này chứng tỏ Nguyễn Dữ đã tìm về nguồn cội “truyền thống nhân đạo và yêu nước” của dân tộc Việt Nam để khẳng định “chính nghĩa thắng gian tà, tinh thần dân tộc thắng ngoại xâm”.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 2“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Dữ trong nền văn học Việt Nam mà cụ thể hơn là văn học thời kì trung đại.Tác phẩm này ra đời vào khoảng thời gian nửa đầu thế kỉ XVI, bao gồm 20 truyện được viết bằng chữ Hán.Một trong những truyện tiêu biểu của “Truyền kì mạn lục” là “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”.
Truyền kì là “một thể văn xuôi tự sự thời trung đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường.Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự tương giao”.Đó cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với người đọc bao thế hệ.Ẩn đằng sau những chi tiết hoang đường ấy là những vấn đề then chốt của hiện thực, những quan niệm, tư tưởng và thái độ của tác giả.”Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” kể về việc kẻ sĩ Ngô Tử Văn đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận làm yêu làm quái, gây hại cho dân lành.Hắn đe dọa và kiện Tử Văn ở Minh ti. Được Thổ công mách bảo cách đối phó với tên hung thần ấy nên khi bị giải đi xuống âm phủ Ngô Tử Văn đã vạch trần những tội ác mà hồn viên Bách hộ gây ra. Kẻ ác bị trừng phạt, Ngô Tử Văn được sống lại.Nhờ sự tiến cử của Thổ công mà chàng được nhận một chức phán sự ở đền Tản Viên.Sau đó, Tử Văn “thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất”.
Nhân vật Ngô Tử Văn được Nguyễn Dữ giới thiệu một cách trực tiếp bằng những lời văn ngắn gọn: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”.Đó cũng là những lời văn thể hiện thái độ ngợi khen về tính cách, phẩm chất con người Ngô Tử Văn của tác giả.Tức giận vì không thể chịu được sự gian tà nên chàng đã đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận “làm yêu làm quái trong dân gian”.Trước khi thực hiện hành động này, Tử Văn đã “tắm gội sạch sẽ, khấn trời” rồi châm lửa đốt. Trong khi tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ thay cho chàng thì chàng “vẫn vung tay không cần gì cả”, không mảy may suy nghĩ đến hậu quả khôn lường. Hành động đốt đền của Tử Văn đã thể hiện sự quyết liệt, dũng cảm, ngay thẳng, chính trực của một kẻ sĩ trong xã hội.Chàng tiêu diệt cái ác vì muốn mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
Ngỡ tưởng chỉ cần đốt đền là mọi việc xong xuôi nhưng Ngô Tử Văn “thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”. Chàng thấy hồn ma tướng giặc đến đòi lại đền và nói những lời đe dọa: “Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ”.Trước những lời đe dọa ấy, Tử Văn không chút run sợ, “ngồi ngất ngưởng tự nhiên” bởi đấu tranh cho cái thiện chưa bao giờ là việc làm sai trái. Hồn ma viên Bách hộ họ Thôi có ngoại hình cao lớn, khôi ngô, trên đầu đội mũ trụ, nói những lời đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ hung ác, gian xảo. Khi sống, hắn theo Mộc Thạnh sang “lấn cướp” nước ta, đến khi chết đi trở thành hồn ma thì hắn lại chiếm đền của Thổ công làm nơi trú ngụ cho mình. Những lời đạo lí giả dối không thể che giấu đi bản chất xảo trá, bạo tàn của hắn.Ngô Tử Văn tin rằng hành động của mình là đúng, là việc chính nghĩa nên làm để bảo vệ cuộc sống của nhân dân nước Việt.
Nhờ có cuộc gặp gỡ với Thổ công mà Tử Văn thấy rõ được những hành động “hung yêu tác quái”, quấy rầy hại dân của hồn ma tướng giặc. Thổ công bày cách giúp Tử Văn “khỏi phải chết một cách oan uổng” khi bị hồn ma kiện ở dưới chốn Minh ti.Chàng bị hai tên quỷ sứ bắt xuống dưới âm phủ. Đó là một không gian đáng sợ đến mức ghê rợn: “gió tanh sông xám, hơi lạnh thấu xương”, “mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác”,…Cảnh tượng ấy không làm cho Tử Văn khiếp sợ, chàng rất cứng cỏi, “không chịu nhún nhường” trước những lời buộc tội của hồn ma tướng giặc. Cuộc cãi cọ của Tử Văn và hồn ma tướng giặc mãi chưa phân phải trái nên Tử Văn đã xin Diêm Vương “đem tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi” để xác nhận sự thật, phân xử cho công bằng. Thấy vậy, người đội mũ trụ đã có những lời nói đỡ cho Tử Văn: “Gã kia một kẻ học trò,thật là ngu bướng,quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa.Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh”.Thoạt đầu người đọc ngỡ tưởng đó là lòng tốt của hồn ma tướng giặc nhưng thực chất đó chỉ là cách mà hắn tự bao biện, bênh vực cho chính mình.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” hấp dẫn, lôi cuốn người đọc bởi các chi tiết kì ảo, có sự đan xen các câu chuyện về con người, ma quỷ, chuyện trần gian, địa ngục, chuyện chết đi và sống lại của Ngô Tử Văn,…Chi tiết Diêm Vương xử kiện ở dưới âm phủ đã thể hiện niềm tin của con người vào công lí xã hội. Nếu trên cõi trần gian cái ác có thể hoành hành, không bị trừng trị thì xuống dưới âm phủ mọi tội ác đều bị trừng trị thích đáng. Chi tiết này đã đẩy xung đột truyện lên cao trào để Ngô Tử Văn có cơ hội bộc lộ sự cương trực và bản lĩnh của mình. Đồng thời cũng có ý nghĩa giáo dục ý thức sống và hành động của con người, con người hãy sống hướng thiện, làm theo lẽ phải bởi “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ đã ngợi ca sự cương trực, khảng khái và bản lĩnh chống lại cái ác, bảo vệ lẽ phải của Ngô Tử Văn. Chàng là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp trí thức của nước ta lúc bấy giờ dũng cảm đấu tranh với cái ác. Bên cạnh đó, truyện cũng thể hiện niềm tin tưởng của tác giả Nguyễn Dữ vào công lí và chính nghĩa trong xã hội. Đó là lí do mà “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” vẫn còn vẹn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 3Nguyễn Dữ là một nhà Nho sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha đỗ Tiến sĩ vào đời vua Lê Thánh Tông. Bản thân Nguyễn Dữ cũng đã đi thi và ra làm quan nhưng chỉ được gần một năm thì lui về ở ẩn. Ông để lại cho đời một tác phẩm nổi tiếng là Truyền kỳ mạn lục, nội dung ghi chép lại những giai thoại, huyền thoại lưu truyền rộng rãi trong dân gian từ thời Lý cho tới thời Lê sơ. Đằng sau các yếu tố hoang đường kì ảo chính là hiện thực của xã hội phong kiến với đầy rẫy các tệ nạn mà tác giả muốn phơi bày và lên án. Tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, trong đó có Chức phán sự đền Tản Viên là nổi bật hơn cả.
Bối cảnh của truyện là thời kỳ giặc Minh sang chiếm đóng nước ta, nhưng tác giả viết lại chuyện này vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, khi chế độ phong kiến đang suy thoái và đầy mâu thuẫn. Nội chiến Lê – Mạc bắt đầu xảy ra, do vậy mà các thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện cũng phần nào phản ánh các thế lực cường quyền phong kiến chia bè kết phái, hãm hại dân lành.
Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác của một trí thức nước Việt tên là Ngô Tử Văn, qua đó thể hiện niềm tin vào công lý, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà, đồng thời lên án lũ giặc xâm lược dù đã chết vẫn không ngừng gây tội ác trên đất nước ta.
Ngô Tử Văn – một Nho sĩ trong vùng đã châm lửa đốt đền của một tên hung thần lúc sống vốn là tướng giặc xâm lược, để trừ hại cho dân. Hồn ma tên tướng giặc họ Thôi giả làm cư sĩ đến đòi Tử Văn dựng trả lại ngôi đền và dọa sẽ kiện chàng tới Diêm Vương. Thổ Công báo mộng cho Tử Văn biết sự thật về tung tích và tội ác của hắn, đồng thời chỉ dẫn mọi cách đối phó. Ngô Tử Văn bị quỷ sứ bắt xuống Âm phủ. Trước mặt Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã dũng cảm tố cáo tội ác của tên hung thần cướp đền với đầy đủ chứng cứ. Cuối cùng, công lý được thực hiện, kẻ ác gian bị trừng trị. Thổ Công được dân chúng xây lại cho ngôi đền mới. Tử Văn sống lại và được Thổ Công tiến cử giữ Chức phán sự đền Tản Viên.
Hành động của chàng là hành động tiêu diệt kẻ gian tà, trừ họa cho dân chúng nên xứng đáng với khí tiết cứng cỏi của một bậc chính nhân quân tử. Hành động đó mang kịch tính cao độ ngay từ đầu nên nhân vật Tử Văn có sức cuốn hút rất mạnh!
Điều đặc biệt là kẻ ác kia không phải là một con người bằng xương bằng thịt mà là một hồn ma vô ảnh, vô hình. Nhưng rất đáng sợ vì nó thuộc về thế giới thần linh, chỗ dựa của giai cấp phong kiến từ xưa đến nay.
Khi bị quỷ sứ giải xuống Âm phủ, trước mặt Diêm vương, Ngô Tử văn tỏ ra vô cùng thông minh và cứng cỏi. Hồn ma tên tướng giặc họ Thôi áp đảo chàng bằng dáng vẻ uy nghi, bằng giọng điệu vừa tỏ vẻ ta đây là bậc trí thức đầy hiểu biết, vừa đe dọa:”Nhà ngươi đã theo nghiệp Nho, đọc sách vở của Thánh hiền, hát không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn hủy tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ!”
Ngô Tử Văn vẫn giữ khí phách cứng cỏi, vẫn ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Hồn ma tên tướng giặc tiếp tục đe dọa ở mức độ gay gắt hơn: “Phong độ không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết!” Có nghĩa là hắn sẽ bắt Tử Văn phải chết và sẽ kiện chàng về tội đốt đền.
Tưởng chừng hồn ma tên tướng giặc hoàn toàn giành thế chủ động và hắn đã dồn được Tử Văn vào thế bị động, thua cuộc. Thực ra đây là chỗ tác giả cố ý để cho cái ác hoành hành, cái thiện tạm thời bị lấn lướt, vì thế mà câu chuyện càng thêm phần hấp dẫn.
Tuy nhiên, bộ mặt thật của hồn ma tên tướng giặc đã bị Thổ Công báo mộng cho Tử Văn biết: “Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo họ tên của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược. Thượng Đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu! Gần đây vì tôi thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay.”
Như thế là Tử Văn đã có được nhân chứng quan trọng cũng chính là nạn nhân của kẻ cướp đền, mạo danh. Chàng trách Thổ Công nhu nhược, không dám kiện hắn trước Diêm Vương và Thượng Đế, mà lại chấp nhận từ bỏ chức vị, đi lánh nạn ở nơi khác. Lời trách như động đúng vào nỗi khổ tâm của Thổ công: “Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Tôi chỉ giữ được một chút lòng thành, nhưng không làm thế nào để thông đạt được lên trên, cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.”
Quả là tài tình! Nguyễn Dữ đã mượn chuyện hoang đường của thế giới thần thánh, ma quỷ để phơi bày thực trạng xã hội phong kiến thối nát đương thời. Bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ngang nhiên vơ vét, đục khoét, ăn hối lộ, bao che kẻ ác, dung túng cho kẻ xấu lộng hành, gây ra bao nỗi oan ức, khổ sở cho dân lành. Tuy thế vẫn có những người dũng cảm như Tử Văn dám chống lại chúng…
Trước mặt Diêm Vương, hồn ma tên tướng giặc phủ phục, quỳ lạy kêu cầu. Không hiểu hắn nói gì mà Diêm Vương một mực bênh vực hắn và kết tội Tử Văn: “Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần lẫm liệt, có công với tiên triều, nên hoàng thiên cho được huyết thực ở một ngôi đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?”
Thì ra hắn đã mạo danh Thổ công “vốn làm tới chức Ngự sử đại phu đời vua Lý Nam Đế, vì chết về việc Cần vương mà được phong ở đây giúp dân đô vật đã hơn một nghìn năm nay.”
Diêm Vương kết tội Tử Văn càng lúc càng gay gắt mà không cho chàng được thanh minh. Phần thắng xem ra đã nghiêng hẳn về phía hồn ma tên tướng giặc gian trá kia. Nhưng Tử Văn không dễ gì bị khuất phục. Lúc bị quỷ sứ lôi đi, chàng la lớn: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng!” Sau đó chàng tung đòn tấn công lên tiếp. Chàng tố cáo trước Diêm Vương lai lịch đen tối, giả mạo của hắn theo đúng lời Thổ công đã báo mộng, lại còn cứng cỏi khẳng định rằng Diêm Vương muốn biết rõ xin cứ cho người đến đền Tản Viên để xác minh hư thực.
Kẻ gian tà thấy Tử Văn nắm được chỗ yếu của mình nên không cãi mà ranh mãnh biến ngay thái độ cứng cỏi của Tử Văn thành vô lễ: “Ấy là trước Vương phủ mà hắn còn ghê gớm đến như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa?”
Lời qua tiếng lại gay gắt giữa hai bên khiến Diêm Vương sinh nghi. Tử Văn vẫn khăng khăng: “Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi; không đúng như thế tôi xin chịu thêm cái tội nói càn!”
Biết không thể uy hiếp được Tử Văn, hồn ma tên tướng giặc tỏ vẻ lo sợ nhưng vẫn cố giữ giọng điệu đạo đức giả của kẻ bề trên: “Gã kia là học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy cũng đủ răn đe rồi. Xin Đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh.”
Cuối cùng thì Tử Văn đã chiến thắng, công lý chính nghĩa đã chiến thắng! Công lý của nhân dân nghìn đời là vậy! Kết thúc câu chuyện rất có hậu: “Tử Văn sống lại, Thổ công được dân làng xây cho ngôi đền mới. Còn ngôi mộ của tên tướng giặc kia thì tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy”. Thật đáng đời cho kẻ xâm lược đã chết rồi mà vẫn không thôi gây tội ác!
Lời bình ở cuối truyện cũng hàm chứa ý nghĩa sâu xa về khí tiết của kẻ sĩ chân chính: “Than ôi! Người ta thường nói:
“Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của Trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà đổi cứng ra mềm? Ngô Tử Văn là một chàng áo vải mà dám đốt đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ty, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.”
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 4Người xưa từng răn dạy rằng “cây ngay không sợ chết đứng”, “ở hiền thì gặp lành”. Những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, trí tưởng tượng vô cùng phong phú, Nguyễn Dữ đã viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Sự xuất hiện của Truyền kì mạn lục cùng với các tập truyện truyền kì khác như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)… đã mang đến cho văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam một bước phát triển mới, rất đáng tự hào. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể chuyện Ngô Tử Văn đốt đền, qua đó thể hiện những nội dung tư tưởng sâu sắc.
Đối lập với sự ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, xảo quyệt của viên Bách hộ họ Thôi, một tên tướng giặc bại trận phải bỏ thân nơi đất khách. Không nơi nương tựa, không người cúng tế, hồn ma lưu vong của tên tướng giặc đã cướp ngôi đền của Thổ thần lại còn tác oai tác quái, gây hoạ cho dân lành. Hắn còn xảo trá tới mức đút lót, doạ nạt những thần xung quanh. Khi Tử Văn đốt đền, hắn dùng lí lẽ đạo Nho để buộc tội, lấy oai linh quỷ thần để dọa nạt. Tử Văn không sợ thì hắn xuống tận Diêm Vương để cầu cứu. Sự nham hiểm của kẻ xâm lược, bản chất của kẻ cướp nước còn được thể hiện rõ hơn ở hành động và lời buộc tội Tử Văn trước Diêm Vương. Khi có nguy cơ bị vạch mặt thì hắn giở trò lấp liếm. Nếu như Tử Văn là đại diện của chính nghĩa, của lẽ phải, của tinh thần quật cường không chịu khuất phục trước uy quyền dù chàng chỉ là một hàn sĩ áo vải thì viên tướng giặc họ Thôi là điểm hội tụ bản chất xấu xa của kẻ xâm lược. Mặc dù truyện được viết từ thế kỉ XVI, khi văn xuôi tự sự Việt Nam chưa có nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhân vật của truyện đã được xây dựng với những nét tính cách nhất quán và trở thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho những loại người khác nhau. Qua hai nhân vật này tác giả đã thể hiện tư tưởng yêu nước sâu sắc: ca ngợi tinh thần yêu chính nghĩa của con người Việt Nam, vạch trần và phê phán bản chất xấu xa của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân khi về cõi âm vẫn xảo trá đê tiện.
Đặc điểm nổi bật của truyện truyền kì là ẩn đằng sau những yếu tố kì ảo hoang đường, những yếu tố phi hiện thực là cái nhìn, quan điểm, thái độ của nhà văn về hiện thực. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên tuy chủ yếu nói về chuyện thần thánh ma quỷ đầy vẻ hoang đường nhưng lại thể hiện những nội dung hiện thực rất rõ ràng. Nội dung hiện thực được thể hiện ở lai lịch của nhân vật, bối cảnh thời gian và không gian của câu chuyện. Chính những yếu tố này làm tăng sức thuyết phục cho câu chuyện, khiến cho câu chuyện đáng tin hơn. Ngô Tử Văn có tên tuổi, quê quán rõ ràng. Thời gian, tình tiết câu chuyện cũng rất cụ thể, “Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan…” đã trông thấy Tử Văn ngồi trên xe quan phán sự và “đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là “nhà quan phán sự””. Lai lịch của viên Thổ quan và tên tướng giặc họ Thôi cũng gắn với những yếu tố thực của lịch sử. Thổ công là người “làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lí Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây…”, còn tên tướng giặc họ Thôi là “viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc”, là viên bộ tướng của Mộc Thạnh…
Sử dụng xen kẽ các yếu tố hiện thực và các yếu tố hư cấu một cách tự nhiên với giọng kể khách quan đã tạo nên sức hấp dẫn rất riêng của truyện truyền kì, đồng thời làm toát lên giá trị hiện thực của tác phẩm.
Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục vào khoảng thế kỉ XVI, thời điểm không mấy sáng sủa của hiện thực Việt Nam. Nhà Lê suy tàn, chính quyền rơi vào tay nhà Mạc nhưng cũng chẳng được bao lâu, nội chiến liên miên, xã hội xảy ra rất nhiều vấn đề. Và bóng dáng của xã hội ấy đã được thể hiện trong một số lời đối thoại của nhân vật. Đoạn đối thoại giữa viên Thổ công với Tử Văn: “sao ngài không kiện… lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê?”. Thế kỉ XVI, đã có rất nhiều người có tài, có nhân cách, bất lực trước hiện thực mà chọn cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, trong đó có Nguyễn Dữ. Câu trả lời của viên Thổ quan không phải không có yếu tố hiện thực. “Trần sao âm vậy”, cõi âm trong tác phẩm là cõi dương thời ấy: “Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả…”. Chỉ một chi tiết nhỏ, tác giả đã phê phán được thói đời, những kẻ có chức, có quyền cấu kết với nhau để hại dân lành, người hiền. Lời nói của Diêm Vương cũng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa vạch trần sự dối trá của những kẻ cầm cân nảy mực, vừa thể hiện thái độ đối với giặc xâm lược: “Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phật thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao xiết được!”. Những chi tiết nhỏ tưởng như vô tình đan cài vào câu chuyện nhưng lại chứa đựng giá trị hiện thực rất quan trọng. Đó chính là sự khéo léo và công phu của người kể chuyện. Sức hấp dẫn của câu chuyện còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy kịch tính. Những tình tiết của truyện được dẫn dắt khéo léo và tạo nên nhiều bất ngờ thú vị. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, phát triển tình tiết… đều thể hiện một trình độ kể chuyện rất hiện đại, khéo léo, vượt xa trình độ văn xuôi trung đại.
Chủ đề nổi bật của truyện vẫn là ca ngợi sự chính trực ngay thẳng. Ngô Tử Văn là tấm gương tiêu biểu cho những người trí thức nước Việt khảng khái, cương trực, dũng cảm chống lại cái ác để trừ hại cho dân. Sự chiến thắng của Tử Văn là sự chiến thắng của lẽ phải, của công lí, thể hiện niềm tin của nhân dân lao động vào lẽ phải. Ngô Tử Văn tuy không được sống lâu nhưng đã bất tử cùng với câu chuyện, đã để lại tiếng thơm muôn đời và trở thành quan phán sự ngự ở đền Tản Viên. Chủ đề ấy còn được thể hiện rõ ở lời bình cuối truyện. Người kể chuyện muốn khẳng định rằng, người chính trực như Ngô Tử Văn mới xứng đáng là người cầm cân nảy mực. Đó cũng là ước muốn chung của nhân dân trong thời buổi xã hội đầy những chuyện ngang tai trái mắt. Bên cạnh đó, tác phẩm còn chĩa mũi nhọn phê phán vào bọn xâm lược và vạch trần mặt trái của xã hội.
Giá trị của Truyền kì mạn lục là ở nội dung hiện thực sâu sắc và cảm hứng ca ngợi những giá trị đạo đức truyền thống. Những con người có bản tính tốt đẹp như Vũ Thị Thiết, như Ngô Tử Văn đều được trở về sống ở thế giới thần thánh, họ đã được thưởng xứng đáng cho phẩm cách tốt đẹp của mình. Tập truyện đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động xưa, niềm tin vào chân lí bất diệt của sự sống “ở hiền gặp lành”.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 5Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó “trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành”. Ông đã viết tập truyện chữ Hán nổi tiếng trong cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục – một tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm.
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là tác phẩm viết bằng chữ Hán gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Lục là sách, mạn là ghi chép tản mạn, truyền kì là chuyện lạ kì lưu truyền trong dân gian. Truyền kì mạn lục là sách ghi chép lại những mẩu chuyện lạ trong dân gian. Tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đơn thuần. Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự việc kỳ lạ xảy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh ảo, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại. Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, những tình người tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và Nguyễn Dữ đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ. Trong số đó có tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đã đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn; đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể về Ngô Tử Văn – người vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Mọi người vẫn thường khen Văn là người cương trực. Ở làng Tử Văn sống trước có một ngôi đền linh ứng nhưng giờ đã thành ngôi đền có hồn của tên giặc xâm lược tử trận gần đó làm yêu quái trong dân gian. Trước sự việc ngôi đền bị uế tạp và yêu quái có thể làm hại dân, “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. Sự khẳng khái, nóng nảy của Tử Văn đã dẫn đến một hành động dũng cảm vì dân trừ hại. Sự tức giận của Tử Văn không phải là sự tức giận cho riêng mình mà là sự tức giận cho mọi người dân đang bị yêu quái quấy nhiễu. Vì thế mà việc làm của Tử Văn là đáng ca ngợi.
Sau khi đốt ngôi đền, Tử Văn ốm nặng rồi “thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành vế phía đông”. Lúc ở chốn âm cung, do chỉ nghe bên nguyên, Diêm Vương – vị quan tòa xử kiện – người cầm cán cân công lí – cũng đã có lúc tỏ ra mơ hồ. Khi đứng trước công đường Ngô Tử Văn càng tỏ ra mình là người có khí phách. Chàng không chỉ khẳng định: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian” mà còn dũng cảm vạch mặt tên bại tướng gian tà với lời lẽ “rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Chàng chiến đấu đến cùng vì lẽ phải. Từng bước, từng bước Ngô Tử Văn đã đánh lui tất cả sự phản công, kháng cự của kẻ thù, cuối cùng đã hoàn toàn đánh gục tên tướng giặc.
Sau khi được minh oan ở minh ti, Tử Văn trở về nhà chưa được 1 tháng thì Thổ công đến bảo Tử Văn nên nhậm chức phán sự ở đền Tản Viên. Thổ công nói: “người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau” và khuyên Văn nên nhận. Thế là Văn vui vẻ nhận lời. Việc được nhận chức ở đền Tản Viên đã nói lên thắng lợi của chàng trong cuộc đấu tranh với tên hung thần xảo quyệt. Sự thắng lợi này đã khẳng định chàng là người tốt, chính nghĩa, dám đấu tranh để thực hiện công lí. Con người của chính nghĩa đã được đứng ra để thực hiện công lý là một thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, tác giả đã vạch trần bộ mặt gian tà của không ít kẻ đương quyền “quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược”. Ngòi bút của Nguyễn Dữ không chỉ lên án một số quan lại mà còn tố cáo mạnh mẽ hiện thực “rễ ác mọc lan, khó lòng lay động” mà bênh vực cho kẻ gian tà. Trong câu nói buột miệng của Tử Văn “Sao mà nhiều thần quá vậy?” cũng cho ta thấy một hiện thực của xã hội phong kiến lúc bấy giờ: xã hội có quá nhiều kẻ hữu danh vô thực, lợi dụng địa vị, quyền thế làm điều bất chính. Kết thúc có hậu của câu chuyện thể hiện đúng truyền thống nhân đạo của dân ta: chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
Viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Nguyễn Dữ đã kết hợp thành công yếu tố ảo và thực. Câu chuyện diễn ra đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của thế giới âm cùng với những hồn ma, bóng quỷ với những việc khác thường: người chết đi sống lại từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm lại về cõi dương. Nhưng chuyện lạ có vẻ như rất thật bởi cách dẫn người khác, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự việc. Yếu tố kì ảo giúp câu chuyện thêm phần li kì, hấp dẫn. Yếu tố thực làm tăng tính xác thực, làm câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Câu chuyện đề cao nhân vật Ngô Tử Văn – đại diện cho tầng lớp trí thức nước Việt giàu tinh thần dân tộc, chuộng chính nghĩa, dũng cảm, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân. Truyện còn thể hiện niềm tin công lý, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 6Người xưa có câu: “cây ngay không sợ chết đứng”, “ở hiền thì sẽ gặp lành”. Thật đúng vậy, những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ gặp được những điều tốt đẹp, gặp dữ hóa lành. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn khẳng khái, cương nghị trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, qua đó thể hiện nhiều tư tưởng sâu sắc.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong những truyện hay, truyện tiêu biểu của Truyền kì mạn lục – một tác phẩm nối tiếng và để đời của Nguyễn Dữ. Cũng giống như những truyện khác trong “Truyền kì mạn lục”, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” cũng chứa đựng nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo. Hồn ma tên tướng giặc ngoại xâm tử trận tác oai tác quái, làm hại dân lành. Khi bị Tử Văn đốt đền thì hắn hiện lên báo mộng, dọa dẫm và đòi đi kiện Diêm Vương. Tử Văn ốm rồi chết, xuống địa phủ chầu Diêm Vương. Quang cảnh thế giới âm phủ là một thế giới kì ảo và cảnh Diêm Vương vừa thật vừa không thật. Được Diêm Vương xử án xong, Ngô Tử Văn trở về dương thế, hai ngày sau lại mất, hồn đi nhận chức phán sự đền Tản Viên.
Bên cạnh những yếu tố hiện thực, những yếu tố hoang đường đã góp phần làm cho câu chuyện trở nên đặc sắc và hấp dẫn. Chính vì thế mà mặc dù biết là hư cấu nhưng người đọc vẫn không thể ngừng theo dõi diễn biến của câu chuyện được. Qua việc sử dụng yếu tố hoang đường, kì ảo, Nguyễn Dữ cũng nhằm thể hiện một ý tưởng nghệ thuật của mình, đó là: thế giới cõi âm cũng chính là sự phản chiếu bóng dáng cuộc đời thực. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” vì thế đã trở thành một bức tranh hiện thực về một xã hội đen tối, ở đó những kẻ đại diện cho công lý lại chính là những kẻ bất lương, vô nhân đạo nhất. Truyện cũng còn ca ngợi con người dám đấu tranh đến cùng cho chính nghĩa qua hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn.
Tử Văn được giới thiệu là người “khẳng khái nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương”. Chính tính cách này của Tử Văn đã dẫn tới hành động đốt đền khi thấy bởi hồn ma tên tướng giặc trong đền đã “làm yêu làm quái trong dân gian”, bao phen làm hại dân lành.
Hành động đốt đền đã khơi dậy một cuộc chiến quyết liệt giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc, mà thực chất đó chính là cuộc chiến giữa chính nghĩa và gian tà, giữa cái thiện và cái ác, giữa công bằng dân chủ và áp bức bất công. Hành động của Ngô Tử Văn cũng khẳng định tính tình cương trực, quyết đoán của chàng. Để trừ hại cho dân, chàng đã dám đốt đền – việc mà xưa nay chưa ai dám làm vì động chạm đến thần linh. Nhưng Tử Văn là người đọc sách thánh hiền, chàng hiểu rõ việc mình làm, cho nên trước khi đốt đền “tắm gội chay sạch, khấn trời” rồi mới “châm lửa đốt đền”.
Sự khẳng khái, cương trực của Tử Văn còn thể hiện qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Khi sống hắn là kẻ xâm lược nước ta, đến khi bỏ mạng ở nước Nam thì lại tranh miếu Thổ địa, vậy mà còn láo xược dám đến mắng mỏ, đe dọa Tử Văn. Trước sự ngang ngược trắng trợn của hồn ma tướng giặc, chàng không hề khiếp sợ mà vẫn “ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Điều đó càng chứng tỏ một khí phách cứng cỏi, một niềm tin vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Vì cảm kích hành động chính nghĩa của chàng mà Thổ thần đã đến dặn dò chàng, đồng thời nhận lời giúp đỡ nếu Tử Văn cần đến người làm chứng.
Bản lĩnh kiên định, chính nghĩa của Tử Văn được thể hiện rõ nhất trong khi chàng lôi xuống âm phủ và hầu kiện với Diêm Vương. Bị lũ quỷ sai nha lôi xuống địa phủ, đi qua những cảnh âm tào rùng rợn, nào quỷ dạ xoa, nào qua sông “gió tanh sóng xám”, hơi lạnh đến thấu xương nhưng Tử Văn không hề run sợ, không vì thế mà trở nên chùn nhụt, khúm núm. Ngay cả khi bị quy kết “tội ác sâu nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”, Tử Văn không tâm phục, một mực kêu oan, đòi phải xét xử minh bạch. Khi đối diện với Diêm Vương uy quyền và trước những lèo lá tráo trợn của hồn ma tướng giặc, Tử Văn cũng không hề nao núng, ngược lại còn đanh thép vạch trần những tội ác của tên tướng giặc với những bằng chứng mà hắn không thể nào chối cãi. Vì sự chính nghĩa, chàng đã hết lòng đấu tranh và cuối cùng cũng đã chiến thắng được tên giặc hung ác, trả lại chức vị cho Thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân. Không những thế, vì có nhân cách cao đẹp mà Tử Văn còn được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn công lí.
Ngược lại với sự cương trực, ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, giảo hoạt của viên Bách hộ họ Thôi. Vốn là một tên tướng giặc bại trận bỏ thân nơi đất khách, hắn trở thành một hồn ma lưu vong, không người cúng tế. Nhưng ngay cả khi chết đi rồi thì bản chất xâm lược của hắn vẫn không hề mất đi. Hắn cướp ngôi đền của Thổ thần, tác oai tác quái làm hại dân lành nếu không cúng tế cho hắn. Khi bị Tử Văn đốt đền, hắn còn trịnh thượng đến dọa nạt, dùng lời lẽ đạo Nho kẻ sĩ để buộc tội. Thấy Tử Văn không hề run sợ, hắn có tìm đến tận Diêm Vương để nhờ trừng trị. Đây đích xác là một kẻ vừa ăn cướp vừa la làng. Khi có nguy cơ bị bại lộ thì hắn lấp liếm, ra vẻ từ bi độ lượng nhưng nhờ có Diêm Vương phán xét, kẻ gian trá như hắn đã bị trừng trị thích đáng. Nếu như Tử Văn là một hàn sĩ áo vải đại diện cho chính nghĩa và tinh thần đấu tranh vì lẽ phải thì hồn ma tên tướng giặc chính là đại diện cho kẻ xâm lược gian ác, xảo quyệt. Xây dựng hai nhân vật này, tác giả đã thể hiện tinh thần chính nghĩa của con người Việt Nam, đồng thời vạch trần và tố cáo bản chất xấu xa, bất lương của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân thì về cõi tào địa phủ cũng vẫn xảo trá, đê tiện.
Qua cuộc đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ chính nghĩa, trừ hại cho dân, hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong người đọc. Đó là một con người khẳng khái, chính trực, bản lĩnh vững vàng để bảo vệ công lý, chống lại cái xấu cái ác. Qua đây, tác giả cũng thể hiện niềm tin về sự chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh với cái xấu, cái ác đến cùng. Truyện cũng ngầm phản ánh xã hội thực tại với đầy rẫy những bất công, những quan tham thì nhận của đút, cái ác thì hoàn thành, công lý thì bị che mắt. Tất cả những ý nghĩa nhân đạo, nhân văn này đã góp phần làm nên đặc sắc cũng như thành công cho tác phẩm.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 7Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên là 1 trong những chuyện hay, tiêu biểu của Truyền kỳ mạn lục. Câu chuyện đã phê phán hiện thực xã hội và đề cao phẩm chất kẻ sĩ, đồng thời phản ánh khá rõ tinh thần dân tộc của tác giả, mà nhân vật chính là Ngô Tử Văn một con người tính tình khảng kháng, trung trực.
Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận của nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chức phán sự ở đền Tản viên chỉ chọn 1 thời điểm có ý nghĩa nổi bật để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn, mở màn là sự xuất hiện của ngô Từ Văn với hành động châm lửa đốt đền thiêng. Hành động đó chính là ngòi nổ cho 1 cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi truyền kỳ. Đây là thể loại văn học phản ánh hiện thực cuộc sống qua những yếu tố kì ảo hoang đường. Nhân vật trong bộ truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ sáng tác bộ truyện trong khoảng thời gian ông đã cáo quan ở ẩn vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Minh chứng rõ ràng cho tính cách cứng cỏi của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.
Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, cướp nơi trú ngụ của thổ thần nước Việt, lại còn gian trá bày trò đút lót rồi tác yêu tác quái với nhân dân trong vùng. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lời đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng.
Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chứng không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuất, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.
Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.
Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút,tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 8Nguyễn Dữ là một nho sĩ thời Lê Sơ ông nổi tiếng với tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” ngoài ra ông còn có rất nhiều tác phẩm hay tiêu biểu khác, những sáng tác của ông đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học nước nhà.
Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” cũng giống như bao nhiêu chuyện khác của “Truyền kỳ mạn lục” đều mang yếu tố huyền bí, hư ảo. Chính điều đó tạo ra sự hấp dẫn của chuyện và làm cho câu chuyện trở nên có tính logic.
Khi phân tích tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên người đọc thường quan tâm tới yếu tố kỳ ảo, huyền bí. Bởi câu chuyện mang nhiều yếu tố được tạo ra do trí tưởng tượng của con người là chủ yếu.
Chính yếu tố hoang đường, thần bí xen kẽ với những yếu tố hiện thực tạo thành chuyện vô cùng hấp dẫn người đọc, nhiều tình tiết kỳ thú, đan xen đã tạo nên cốt cách riêng của thể truyền kỳ. Cũng chính nhờ yếu tố hoang tưởng, hư cấu làm cho nhà văn có thể thoải mái phát huy tính tưởng tượng cũng như đòi hỏi sự công bằng mà trong đời sống hiện thực không làm được. Thông qua câu chuyện ta có thể thấy được thái độ quan điểm sống của nhà văn trong thời kỳ mà Nguyễn Dữ sống.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ tập trung vào cuộc đối đầu giữa một bên là anh chàng có tên Ngô Tử Văn vốn là người vô cùng thẳng tính, bộc trực, nóng nảy nên khi thấy điều gì gian ác, là không thể chịu được. Với một bên là hồn ma của một tên tướng giặc bị bại trận và giết chết nhưng do tâm tính của hắn quá tà ác nên sau khi chết hắn hóa thành yêu tinh, yêu quái nhũng nhiễu dân lành và quấy phá Ngô Tử Văn . Thực chất đây chính là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa phe chính nghĩa và phe tà ác.
Thể hiện quan niệm sống, tư tưởng nhân văn của tác giả Nguyễn Dữ là người luôn hướng tới điều thiện và mong muốn cho cái thiện sẽ thắng cái ác trong xã hội hiện thực.
Trong câu chuyện nhân vật của Ngô Tử Văn vô cùng đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái xấu cái ác nhưng anh ta không hề nao núng. Trong hoàn cảnh nào anh ta cũng thể hiện niềm tin, tính khẳng khái của mình. Ngô Tử Văn là đại diện cho những người trí thức, trung thực, khẳng khái, luôn một lòng muốn xã hội được công bằng, giải quyết những oan khuất cho con người trong giai đoạn mà ông sống.
Trong những câu văn của mình Nguyễn Dữ đã dành nhiều sự ưu ái cho nhân vật Ngô Tử Văn điều này thể hiện quan niệm sống, sự đồng tình mạnh mẽ của ông trong cuộc chiến chống lại cái xấu, cái ác. Ông tin cái thiện luôn chiến thắng cái ác, sự chiến thắng của nhân vật Ngô Tử Văn thể hiện niềm tin của tác giả Nguyễn Dữ.
Đồng thời thể hiện khát vọng giành công lý, công bằng cho nhân dân của một con người có học thức, có tấm lòng nhân hậu. Còn tên tướng giặc đại diện cho quân xâm lược, đại diện cho cái ác. Sau khi chết hắn còn tác quái nhưng vẫn bị cái tốt, bị Ngô Tử Văn tiêu diệt thể hiện chân lý không dung tha cho những kẻ bất lương, không có tính người. Đồng thời qua đây tác giả Nguyễn Dữ muốn tố cáo xã hội, kêu gọi con người đoàn kết chống lại cái xấu tạo một xã hội công bằng, chính nghĩa.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 9Trong kho tàng truyện đặc sắc của dân tộc ta, không hiếm những tác phẩm có nội dung với những yếu tố ly kỳ, biến ảo để vừa tăng thêm tính hấp dẫn cho câu chuyện vừa biểu thị ước mơ về công lý, công bằng của người dân. Trong số đó, tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm khá tiêu biểu có mang yếu tố thần kì này. Các tác phẩm trong “Truyền kì mạn lục” đều được ghi nhận từ các câu chuyện lưu truyền trong dân gian và được Nguyễn Dữ thêm vào đó tính hiện thực của xã hội đương thời cùng tấm lòng nhân đạo của mình, ước mơ công lý của người dân lương thiện. Trong đó phải kể đến tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” – một câu chuyện mà khi nhắc tới người ta luôn phải tấm tắc ngợi khen.
Truyền kì là áng văn xuôi tự sự thời trung đại, kể những câu chuyện phản ánh hiện thực thông qua những yếu tố hoang đường, nơi mà thần, quỷ, người giao hòa tương giao với nhau. Và ẩn sau mỗi yếu tố li kì ấy là tấm lòng của tác giả, quan niệm, niềm tin, ước mơ, khát vọng của họ trước cuộc đời. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” kể về chàng trai tên Ngô Tử Văn và hành động đốt đền của tên tướng bại trận phương Bắc họ Thôi đang tác quái trong dân gian, gây họa cho dân lành. Sau hành động liều lĩnh ấy, Tử Văn bị hắn đe dọa và kiện ở Minh ti. Sau này, nhờ Thổ công mách bảo, Tử Văn đã vạch trần tên tướng giặc và tội ác của hắn. Tên tướng bị trừng phạt còn Tử Văn lại trở về dương gian. Cuối cùng, nhờ sự tiến cử của Thổ thần, Tử Văn được nhận chức Phán sự ở đền Tản Viên, dưới trướng của Đức Thánh Tản rồi “không bệnh mà mất”. Qua câu chuyện, Nguyễn Dữ muốn phản ánh niềm tin muôn đời của người dân lao động về công lý, về việc “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” và về sự chính trực, công minh, dám đứng lên bảo vệ lẽ phải của con người sẽ được đền đáp.
Ngô Tử Văn – nhân vật chính của tác phẩm là người ở huyện Yên Dũng, đất Lang Giang, tên là Soạn, họ Ngô. Ngay từ khi vào tác phẩm, Ngô Tử Văn đã được tác giả giới thiệu là một người khẳng khái, cương trực, nóng nảy, “thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương”. Lời giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn, súc tích của tác giả vừa là sự khẳng định gây chú ý cho người đọc, lại vừa thể hiện sự ngợi khen, ngợi ca trước tính cách, phẩm chất của Ngô Tử Văn, định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về hành động có phần ngang ngược của chàng sau này. Gần nhà Ngô Tử Văn có ngôi đền thờ Thổ thần, vậy mà tên Bách hộ họ Thôi phương Bắc, tử trận ở gần đó dám chiếm đền rồi “làm yêu làm quái trong dân gian”, lộng hành, hống hách, làm hại tới dân chúng, khiến cho Tử Văn hết sức tức giận.
Thánh thần vốn là những điều thiêng liêng trong tâm linh của người Việt từ xưa, vậy nên chẳng có ai dám mạo phạm vào đền đài, miếu mạo, chùa chiền. Vậy nên, đền bị tên tướng giặc chiếm nhưng chẳng ai dám đứng lên mà phản kháng, chỉ biết sống trong sợ hãi, “dốc hết của cải” để cúng cầu. Trong khi tất cả mọi người đều lo sợ, cầu cúng đến “gia sản khánh kiệt”, “lắc đầu lè lưỡi” thì Tử Văn lại khác, chàng lại “tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. Hành động của chàng dường như đã được tính toán, chuẩn bị với mục đích rất rõ ràng. Chàng rất cẩn trọng, tắm rửa “khấn trời” rồi mới đốt khiến cho người đọc cảm nhận được hành động đó của Tử Văn không phải là hành động bộc phát tức thời. Ngay cả lúc đốt đền, Tử Văn cũng rất quyết liệt, không hề do dự một phần mà công khai, vô cùng dũng cảm. Sau khi châm lửa đốt đền xong, trong khi “mọi người lắc đầu lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn” còn chàng thì lại “vung tay không cần gì cả”. Hành động đó thể hiện sự khẳng khái trong tính cách của chàng như đã nêu ở đầu câu chuyện, vừa ngạo nghễ, vừa dũng cảm, thể hiện sự “cương phương” của một con người chính trực một lòng muốn tiêu diệt cái ác mang lại bình yên cho người dân, bộc lộ ý chí, ý thức dân tộc vô cùng mạnh mẽ khi dang tay bảo vệ ngôi đền của dân tộc mình mà diệt trừ hồn ma tên tướng giặc bại trận đang làm loạn nhân gian.
Những tưởng đốt xong là hết, nhưng không, “đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”. Trong cơn mơ màng, chàng gặp một người “khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ”. Kẻ giống cư sĩ kia, tưởng rằng nói năng phải kính trên nhường dưới, biết trước biết sau thế nhưng lời nói lại chẳng giống như vẻ bề ngoài, hắn nói năng với đầy lời mắng mỏ, đe dọa, đòi Tử Văn phải trả lại đền “biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ”, “Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết”. Hồn ma tên tướng giặc kia ngoại hình thì sáng lạn, nói lời đầy đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ ranh ma, xảo quyệt, tham lam, độc ác, xảo trá. Hắn theo chân Mộc Thạnh sang cướp nước ta, làm điều ác bá, chết đi lại gây họa, cướp đền, tác quái trong dân chúng, đe dọa kẻ sĩ trong dân gian, còn dọa nạt sẽ bắt kiện chàng. Nhưng đối lập với thái độ đe dọa, tức giận của tên tướng bại trận, Tử Văn lại “mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”, thái độ vừa bình thản, vừa ung dung, ngạo nghễ. Bởi chàng tin việc làm của mình là chính nghĩa, là hành động mang tới lợi ích cho muôn dân, đúng như lời dạy trong kinh sách.
Thế rồi, tên tướng giặc “phất áo bỏ đi”, Tử Văn vẫn mê man trên giường thì chiều tối “lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh di vài đến trước thềm, vái chào”. Khác với tên tướng giặc quần là áo lượt, Thổ thần đến gặp Tử Văn chỉ với “áo vải mũ đen”, giản dị, thanh bạch. Không chỉ vậy, lời nói, cử chỉ còn nhẹ nhàng, đúng với tư chất của một vị thần cai quản cả một vùng. Tuy là Thổ thần, thế nhưng đến gặp Tử Văn, ông vẫn cung kính, “vái chào” rồi thưa chuyện cảm ơn, hết sức coi trọng Tử Văn.
Thổ thần khi gặp Tử Văn đã kể cho chàng nghe hết thảy những việc làm của tên tướng họ Thôi “chanh chiếm miếu đền, giả mạo tên tuổi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả”, nhờ vậy mà chàng càng thêm hiểu rõ về sự xảo trá, gian manh và độc ác của hắn. Không chỉ vậy, Thổ thần còn lo lắng cho Tử Văn, rặn chàng phải cẩn trọng bởi tên tướng giặc đã kiện chàng ở Minh ty. Vậy là chàng đã hiểu hết mọi chuyện, chàng trách Thổ thần đã quá nhu nhược, sao lại để hắn lộng hành, hống hách đến như vậy? Nhưng Thổ thần tuy là thần tiên, thấu hiểu đạo nghĩa, hiểu rõ mọi chuyện, căm hận kẻ cướp đền của mình nhưng vẫn phải cam chịu số phận, chấp nhận bị đánh đuổi khỏi đền của mình, không dám đứng lên đấu tranh “kiện ở Diêm vương và tâu lên Thượng đế” bởi chẳng có ai làm chứng “những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực nó cả”. Ở đây phải chăng Nguyễn Dữ đã đưa vào trong câu chuyện hoang đường của mình hình ảnh hiện thực trong xã hội phong kiến đương thời thối nát khi mà dân lành phải chịu hà hiếp bởi những tên quan sai độc ác, gian trá, những vị quan hiền lành, lương thiện thì bị hãm hại, không dám đấu tranh, những kẻ làm quan khác thì tham lam, ích kỉ, tham tiền đút lót mà không màng tới nỗi khổ của người dân?
Biết trước sự việc Tử Văn phải đi về chốn Minh ty là điều không tránh khỏi, Thổ thần đã bày cách để kẻ sĩ chính nghĩa như chàng “khỏi phải chết một cách oan uổng”. Câu chuyện được Nguyễn Dữ phát triển vô cùng logic, đúng với niềm tin của con người rằng kẻ làm việc chính nghĩa, thuận theo ý muôn dân thì bao giờ cũng được thần tiên giúp sức. Đúng như lời Thổ công dự đoán, đến chừng nửa đêm, Tử Văn bị hai tên quỷ sứ bắt xuống Minh ti, khép chân vào “tội ác sâu nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”. Minh ty dưới địa ngục là một nơi đáng sợ tới ghê rợn, ai bước xuống cũng không khỏi khiếp hoảng khi “gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”, “hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác”. Thế nhưng, Tử Văn đâu phải người thường, đến đền chàng còn dám đốt, vậy nên những nơi như thế chẳng làm chàng khiếp sợ mà còn khiến chàng cứng cỏi hơn bội phần. Chàng không hề nao núng mà kêu to, bày tỏ sự oan uổng của mình để được vời vào điện mà đối chất với tên tướng giặc và Diêm vương.
Đến trước Minh ty, chàng đã thấy tên tướng giặc đội mũ trụ đang kêu cầu trước sân. Hắn buộc tội Tử Văn, cho rằng chàng “bướng bỉnh gân guốc”, không chịu phục. Tên tướng giặc khép nép, tỏ ra là một kẻ bị hại đáng thương, một mực kêu oan với Diêm vương, bằng những lời lẽ xàm tấu của mình, Diêm vương đã bị hắn phỉnh lừa mà trách tội Tử Văn rằng “Kẻ kia là cư sĩ, trung thuần khích liệt, có công với tiền triều, nên Hoàng thiên cho được huyết thực ở một tòa đền để đền công khó nhọc. Mày là kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo…?” Lời trách tội của Diêm vương đanh thép là thế, thế nhưng, Tử Văn – người biết được sự thật thì điềm nhiên, chẳng hề kinh hãi, chàng một mực kêu oan, “tâu trình đầu đuôi như lời ông cụ già đã nói, lời rất cương chính, không chịu chùn chụt chút nào”.
Đúng như nhân dân ta vẫn tin “ở hiền thì gặp lành”, chính nghĩa sẽ luôn thắng gian tà, đó là ước mơ muôn đời của nhân dân ta. Câu chuyện khép lại với cái kết vô cùng thỏa mãn, Tử Văn được sống lại, đền được xây mới, Thổ thần được trở về, còn một tên tướng giặc bị “bật tung lên, hài cốt tan tành như cát”. Đây như là lời răn dạy cho những kẻ làm việc ác ở đời, sống gây tội ác thì đến chết cũng sẽ bị trừng phạt. Cuộc tranh đấu dưới Minh ty quả là vô cùng gay cấn, thế nhưng, Ngô Tử Văn đã bộc lộ được khí phách của một kẻ sĩ, với sự can đảm, cứng cỏi và thông minh của mình đã buộc tên tướng giặc xảo trá phải nhận hình phạt thích đáng cho tội lỗi của mình. Bằng những chi tiết li kỳ, huyền ảo, Nguyễn Dữ đã lồng vào trong câu chuyện ước mơ ngàn đời của người dân ta là có được công lý công bằng giữa xã hội.
Câu chuyện khép lại khi Thổ thần trở lại cảm ơn Tử Văn vì sự giúp đỡ của chàng. Để trả ơn chàng, ông đã xin với Đức Thánh Tản cho chàng được nhận chức phán sự tại đền. Tử Văn đã vui vẻ nhận lời rồi “thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất”. Đây là một món quà, một phần thưởng to lớn cho hành động trượng nghĩa của chàng, cho sự khẳng khái, cương trực, gan dạ, thông minh của chàng văn sĩ họ Ngô. Những xung đột được khép lại bằng hình ảnh năm Giáp Ngọ, người quen của Tử Văn có việc ra ngoài cửa tây buổi sớm, trong sương mù, thấy xe ngựa ầm ầm đi tới, lại nghe tiếng quát tránh đường cho xe quan Phán sự, “người ấy ngẩng đầu trông về phía trước, người ngồi trên xe chính là Tử Văn”.
Hình ảnh kết thúc câu chuyện càng khiến cho dư âm của câu chuyện âm vang mãi trong lòng người đọc chúng ta. Đó là lời truyền đời rằng kẻ tốt, làm việc thiện sẽ được báo đáp, vinh danh, còn kẻ xấu, tất sẽ phải chịu sự trừng phạt thích đáng. Hành động của Tử Văn biểu hiện cho sự diệt trừ cái ác đến tận gốc, lấy lại danh dự cho Thổ thần, phơi bày nguyên nhân khiến cho chàng có hành động đốt đền ngang ngược. Lời truyền đời rằng “nhà quan Phán sự” là niềm tin về một vị quan thanh liêm, chính trực, được muôn dân yêu kính.
Sau câu chuyện, chúng ta rút ra được những ý nghĩa và bài học mà tác giả Nguyễn Dữ muốn gửi gắm thông qua Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Về phần ý nghĩa, ông muốn phản ánh cái xã hội phong kiến đương thời đang rơi vào thối nát, phản ánh sự giả tạo, xảo trá của một bộ phận con người trong xã hội cùng với những nỗi oan trái, bất công không thể tỏ bày. Ông còn đề cập tới nạn tham quan, lộng quyền, nhận hối lộ, làm việc không chí công vô tư của đám quan lại đương thời cũng như phê phán sự hèn nhát, nhu nhược, không dám đứng lên đòi lại quyền lợi, bảo vệ lẽ phải của một bộ phận quan lại và đa số người dân. Ông cũng ca ngợi sự dũng cảm, chính trực, ngay thẳng của những người dân bình thường trong xã hội.
Qua câu chuyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ muốn ca ngợi tinh thần khẳng khái, cương trực, biết đứng lên bảo vệ lẽ phải Ngô Tử Văn. Chàng mặc dù chỉ là một kẻ học trò nghèo, một người bình thường trong xã hội bấy giờ nhưng lại dám đứng lên chống lại cái ác và chiến thắng. Qua đó, Nguyễn Dữ muốn khẳng định lại lần nữa niềm tin của ông vào công lý trong xã hội, và niềm tin ấy sẽ còn giá trị đến tận mai sau.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 10Nguyễn Dữ sống khoảng thế kỉ XVI, ông là người học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan trong một thời gian ngắn rồi lui về ở ẩn. Và cũng bắt đầu từ đó ông sưu tầm truyện dân gian và sáng tác. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tập Truyền kì mạn lục, ngoài Chuyện người con gái Nam Xương đã được tiếp xúc từ cấp học dưới, thì trong tập truyện ấy cũng không thể không nhắc đến Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.
Tác phẩm xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn tính tình cương trực đã đi đốt đền của tên giặc đất Bắc. Tác phẩm không chỉ là câu chuyện đốt đền thành tiên của Ngô Tử Văn mà nó còn có giá trị khái quát những vấn đề xã hội nóng bỏng, có ý nghĩa cho đến tận ngày nay. Mở đầu tác phẩm ông giới thiệu nhân vật: “Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được”, để cho nhận xét trở nên khách quan, ông còn dẫn lời nhận xét của những người cùng thời: “… vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Qua đó giúp tạo nên ấn tượng sâu sắc về nhân vật.
Để làm sáng tỏ những đặc điểm tính cách trên, nhân vật Ngô Tử Văn trực tiếp xuất hiện qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động. Sự kiện đầu tiên chính là việc Ngô Tử Văn đốt đền tên tướng giặc họ Thôi. Hắn là tướng giặc đời Minh, khi giao chiến với quân ta đã chết ở gần miếu của vị thổ công nước Việt, hắn liền chiếm lấy đền thờ thổ công, tác oai tác quái trong nhân gian. Điều đó làm Ngô Tử Văn vô cùng tức giận, Tử Văn tắm rửa sạch sẽ và đốt đền của hắn. Đây là một hành động dũng cảm: trong khi tất cả mọi người ai cũng lắc đầu, lè lưỡi, can ngăn, lo cho tính mạng Tử Văn thì chàng là người trong cuộc lại “vung tay không cần gì cả”. Vì đây là việc nghĩa nên không thể không làm. Tử Văn tin tưởng vào hành động chính nghĩa của mình.
Sau khi đốt đền Ngô Tử Văn lên sơn sốt, người mê mệt, đây cũng chính là lúc Ngô Tử Văn gặp hồn ma tên tướng giặc giả danh làm cư sĩ tìm đến. Dù hồn ma sử dụng những lời hăm dọa: “biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ”. Nhưng Ngô Tử Văn không hề sợ hãi, nao núng tinh thần. Thái độ ung dung, thản nhiên, coi thường lời buộc tội và đe dọa của hồn ma cho thấy Tử Văn không phải là bất cần, liều lĩnh mà là thái độ tự tin của người nắm trong tay sức mạnh của chính nghĩa. Câu hỏi trước vị thổ thần “Liệu hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là biểu hiện của sự hoang mang, sợ hãi mà là sự mưu trí, muốn biết rõ về kẻ thù để liệu kế đối phó mà giành chiến thắng.
Ngô Tử Văn nhất quyết không dựng lại đền cho hồn ma tướng giặc nên bị quỷ sứ đến bắt đi trong đêm, khi bị giải đi Tử Văn kêu oan để đòi được xử công bằng. Diêm Vương tưởng Tử Văn có tội đã dùng uy lực của kẻ bề trên để quát mắng, đe dọa, buộc tội Tử Văn. Trước Diêm Vương, Tử Văn vẫn rất cứng cỏi tâu trình, kể lại đầu đuôi sự việc, lời nói không chịu nhún nhường chút nào. Trước những lời lẽ đanh thép, lí lẽ đầy thuyết phục của Tử Văn, Diêm Vương đã cho người đi xem xét và Tử Văn đã lấy lại được công bằng. Qua đây cho thấy sự hiên ngang, dũng cảm, khát vọng đẹp đẽ muốn thực thi công lí của Tử Văn. Và Tử Văn đã được đền bù xứng đáng, được Thổ thần tiến cử giữ chức phán sự đền Tản Viên. Qua chi tiết này, Nguyễn Dữ muốn khẳng định triết lí “Ở hiền gặp lành” của nhân dân ta.
Đằng sau nhân vật Ngô Tử Văn, ta còn thấy Nguyễn Dữ dựng lên bức tranh hiện thực xã hội với thái độ phê phán sâu sắc của tác giả. Tác phẩm mượn bối cảnh của xã hội thế kỉ XV nhưng thực chất tác giả muốn phơi bày hiện thực xã hội mà ông đang sống – đầu thế kỉ XVI với đầy những bất công ngang trái: tên hung thần đã cướp đền miếu, giả mạo tên họ của vị Thổ thần nước Việt, hắn được hưởng tất cả quyền lợi của vị Thổ thần, nhưng tác yêu tác quái trong dân gian, đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn khổ. Người lương thiện: vị Thổ thần làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lý Nam Đế, chết vì việc cần vương, giúp dân đã hơn nghìn năm nay, nhưng bị đánh đuổi nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm. Tử Văn chính vì cương trực thẳng thắn, thấy sự tà gian không thể để yên nên đã bị đẩy xuống âm phủ “Tội sao ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”. Thánh thần ăn của đút để bênh vực cho kẻ ác: Đền miếu đều tham của đút, bênh vực cho hung thần nên dẫu Thổ công có đi kiện cũng sẽ thua. Dưới âm ti Diêm Vương và các phán quan đại diện cho công lí bị lấp tai, che mắt, bị tên tướng giặc lừa phỉnh, thiếu chút nữa đã xử oan cho người chính trực.
Advertisement
Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo hồn ma tên tướng giặc bại trận: tham lam, quỷ quyệt, hung ác: Khi sống, là tướng giặc cướp nước, khi chết, hồn ma vất vưởng ở nước Nam vẫn không từ bỏ giã tâm xâm lược, đã chiếm đền miếu, giả danh lương thần nước Việt. Khi Tử Văn châm lửa đốt đền đã tìm đến, dùng nguyên lí đạo nho để kết tội, dùng oai linh thánh thần để hăm dọa. Tác phẩm sử dụng yếu tố thần kì tăng cường sức hấp dẫn cho tác phẩm. Cốt truyện giàu kịch tính được sắp xếp hợp lí. Nghệ thuật kể chuyện đạt đến một trình độ mới. Qua đó khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Dữ.
Với tác phẩm này Nguyễn Dữ đã lên tiếng, khẳng định, đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn – một trí thức nước Việt. Đồng thời thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa nhất định thắng gian tà và triết lí “Ở hiền gặp lành” của dân tộc ta.
Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 11Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn trung đại Việt Nam thế kỉ XVI. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một tác phẩm được trích ra trong số 20 tập truyện của “Truyền kỳ mạn lục”, chuyện xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn với tính cách dũng cảm, kiên cường, được coi là hình ảnh đại diện cho chính nghĩa luôn đứng ra đấu tranh chống lại các thế lực gian tà, bảo vệ cuộc sống ấm no yên bình cho nhân dân, khẳng định niềm tin vào công lý, chính nghĩa luôn thắng gian tà.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu ngay nhân vật chính của truyện, một cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn giống như lời kể gây sự chú ý, tò mò và hứng thú cho người đọc “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang…là một người cương trực”. Với tính cách của Tử Văn, thấy việc gian tà thì chướng mắt không chịu được nên khi biết rằng tướng giặc họ Thôi tử trận gần đền bao năm làm yêu làm quái nhũng nhiễu dân gian, Tử Văn đã quyết định đi đốt đền mặc cho kết quả ra sao. Trước khi đốt đền Tử Văn tắm rửa sạch sẽ, thắp hương vái lạy thể hiện sự chân thành, chứng minh sự trong sạch và ý muốn bảo vệ sự yên bình cho nhân dân, mong muốn hành động chính nghĩa của mình được trời đất chứng giám. Hành động đốt đền của Tử Văn đã cho thấy anh là một người cương trực, dũng cảm.
Tuy nhiên sau khi đốt đền Tử Văn đã bị hồn ma tên tướng giặc họ Thôi đòi xây lại đền, hắn làm cho Tử Văn cảm thấy khó chịu “đầu lảo đảo và bụng run run, nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”, dù bị hồn ma tướng giặc đe dọa sẽ gặp tai vạ và phải gặp Diêm Vương nhưng Tử Văn không hề tỏ ra sợ hãi mà ngược lại vẫn ngất ngưởng tự nhiên, mặc kệ những lời đe dọa. Đến khi Thổ Công bị hại hiện lên gặp Tử Văn anh mới ngỡ ra hồn ma tên tướng giặc là kẻ đã cướp đền của Thổ Công đất Việt, Thổ Công đã kể lại sự tình mình bị cướp đền cùng căn dặn những việc Tử Văn cần làm nếu muốn diệt trừ hung thần và giải trình với Diêm Vương. Ban đầu Tử Văn rất kinh ngạc, hỏi Thổ Công “Hắn có thực là tên hung thần, có thể gieo vạ cho tôi không?”, nhưng rồi với bản lĩnh của kẻ sĩ, Tử Văn đã chấp nhận nghe theo lời Thổ Công, đi xuống gặp Diêm Vương đòi lại công bằng cho Thổ thần đất Việt.
Khi Ngô Tử Văn bị bắt xuống Minh Ti, quang cảnh nơi đây lạnh lẽo, rùng rợn, đáng sợ với nhiều hình ảnh kỳ ảo như “cầu dài ước hơn nghìn thước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”, Tử Văn không sợ hãi mà vẫn gan dạ lớn tiếng kêu oan. Cuộc xét xử tội của Tử Văn dưới âm phủ diễn ra rất căng thẳng, ban đầu hồn ma tên tướng giặc tố cáo Tử Văn đốt đền, Diêm Vương trách mắng ngay nhưng Tử Văn đáp lại bằng giọng cứng cỏi, lên tiếng vạch mặt bản chất xấu xa của tên tướng giặc. Sau đó tướng giặc họ Thôi sợ bị bại lộ nên đạo đức giả xin giảm tội cho Tử Văn “Xin đại vương khoan dung tha cho hắn… nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh”, ngược lại Tử Văn càng kiên quyết, xin đem tư giấy đến đền Tản Viên chứng thực, Diêm Vương chấp thuận quả nhiên sự thật đúng như Tử Văn nói, kết quả Tử Văn được xử thắng kiện. Tử Văn đã đấu tranh đến cùng cho lẽ phải, không hề run sợ ở chốn ma quỷ, Tử Văn thắng kiện đã chứng minh một quy luật tất yếu, chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà.
Để đền ơn nghĩa với Tử Văn, Thổ Công đã tiến cử anh giữ chức phán sự ở đền Tản Viên, Tử Văn là người chính trực, gan dạ dũng cảm và lòng tin vào công lý nên anh xứng đáng nhận chức phán sự. Lời bình ở cuối truyện như một lời nhắn nhủ, nhắc nhở của tác giả khiến chúng ta phải thừa nhận và suy nghĩ, thứ nhất là thừa nhận hiện thực xã hội đương thời thối nát đầy rẫy những áp bức bất công, biểu hiện tiêu cực nơi âm ti phản chiếu chính hiện thực xã hội tham ô, hối lộ; thứ hai điều chúng ta phải suy nghĩ đó là “cứng quá thì gãy” hay chỉ sợ “ta không cứng cỏi được”, đừng vì sợ gãy mà không dám cứng cỏi, chỉ khi ta dám đấu tranh đến cùng mới giành được phần thắng, mới diệt trừ được tận gốc cái ác, lấy lại công lý, chính nghĩa.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” với cốt truyện đầy kịch tính, các yếu tố kỳ ảo xen kẽ tạo nên một sự hấp dẫn riêng với người đọc. Truyện không chỉ củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý, chính nghĩa luôn thắng gian tà mà còn khuyên răn con người ta đứng trước cái xấu cái ác phải “cứng cỏi” đấu tranh đến cùng, không nên run sợ, trốn tránh, thờ ơ mà phải quyết tâm diệt trừ tận gốc gian tà.
Phân tích bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 12Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống cùng sự nhạy bén trong việc sử dụng ngôn từ. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.”
Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người mà biểu hiện của giá trị nhân đạo là lòng thương người, sự cảm thông, bênh vực con người. Mỗi một tác phẩm thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh khác nhau. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm trước hết thể hiện ở tiếng nói lên án những thế lực xấu xa, chuyên ức hiếp dân lành. Ở làng Tử Văn sống trước có một ngôi đền linh ứng nhưng giờ đã thành ngôi đền có hồn của tên giặc xâm lược tử trận gần đó làm yêu quái trong dân gian. Hồn ma còn đút lót, dọa nạt những vị thần xung quanh. Khi có nguy cơ bị vạch mặt ở dưới âm phủ, thì hắn lại giở trò lấp liếm. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, tác giả đã vạch trần bộ mặt gian tà của không ít kẻ đương quyền “quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược”. Trong câu nói buột miệng của Tử Văn: “Sao mà nhiều thần quá vậy?” cũng cho ta thấy một hiện thực của xã hội phong kiến lúc bấy giờ: xã hội có quá nhiều kẻ hữu danh vô thực, lợi dụng địa vị, quyền thế làm điều bất chính. Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục vào giai đoạn nhà Lê suy tàn, nội chiến liên miên, cái ác hiện hữu khắp nơi, những tên quan lại thì cậy thế ức hiếp dân lành. Tiếng nói tố cáo của Nguyễn Dữ cũng chính là tố cáo những thế lực xấu xa đương thời: Bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ngang nhiên vơ vét, đục khoét, ăn hối lộ, bao che kẻ ác, dung túng cho kẻ xấu lộng hành, gây ra bao nỗi oan ức, khổ sở cho dân lành.
Ngoài ra, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn thể hiện ở tiếng nói ca ngợi chính nghĩa, mà nổi bật trong đó là hình tượng của Ngô Tử Văn. Trong khi mọi người đều sợ hãi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng thì Tử Văn cương quyết, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ mong muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, cũng từ đó giúp ta thấy được cốt cách của một người dũng cảm, tin vào chính nghĩa, bênh vực người lương thiện của chàng. Sự khẳng khái, cương trực của Tử Văn còn thể hiện qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Khi sống hắn là kẻ xâm lược nước ta, đến khi bỏ mạng ở nước Nam thì lại tranh miếu Thổ địa, vậy mà còn láo xược dám đến mắng mỏ, đe dọa Tử Văn. Trước sự ngang ngược trắng trợn của hồn ma tướng giặc, chàng không hề khiếp sợ mà vẫn “ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Điều đó càng chứng tỏ một khí phách cứng cỏi, một niềm tin vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Vì cảm kích hành động chính nghĩa của chàng mà Thổ thần đã đến dặn dò chàng, đồng thời nhận lời giúp đỡ nếu Tử Văn cần đến người làm chứng. “. Khi đối diện trước Diêm Vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ, bằng chứng không thể chối cãi, giọng điệu đanh thép vững vàng. Chàng không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Và công lí đã chiến thắng cái ác, hồn ma bị trừng phạt nặng nề, còn Tử Văn thì được ban thưởng.
Truyền kỳ mạn lục là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia”, tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. Điều đó đã được thể hiện rõ rệt thông qua “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”
Có thể nói, tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho sự lương thiện, cương trực của Ngô Tử Văn.
Phân tích bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Mẫu 13Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” chủ yếu ngợi ca vẻ đẹp của nhân vật Ngô Tử Văn – đại diện cho người trí thức nước Việt luôn yêu công lý, không ngại đối chấp bảo vệ lẽ phải và có tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Mang niềm tin vào chính nghĩa luôn thắng gian tà, tác giả muốn nhắn ngủ phải đấu tranh đến cùng để tiêu diệt cái xấu, cái ác.
Ngô Tử Văn là một nhân vật cương trực yêu chính nghĩa, nhân vật được tác giả giới thiệu trực tiếp ngay đầu tác phẩm. Chàng là một người chính trực, sống luôn có đạo nghĩa thấy sự tà gian thì không thể chịu được nên đã đốt đền trừ hại cho dân. Vì ham muốn thực hiện lẽ phải cho dân vì dân nên chàng đã nhận chức phán sử đền tản viên. Trước lời đe dọa của hồn ma tướng giặc cũng không làm Ngô Tử Văn run sợ hay né tránh mà vẫn mạnh mẽ vạch trần tên hùng thần. Cãi lại quỷ và tên hung thần họ Thôi, dùng lời lẽ cứng cỏi, không chịu nhún nhường để tâu trình Diêm Vương. Giàu tinh thần dân tộc, đấu tranh hết sức mình đến cùng để tiêu diệt hồn ma tên tướng giặc, làm sáng tỏ nỗi oan và phục hồi danh vị cho thổ thần nước Việt.
Chiến thắng của Ngô Tử Văn – một kẻ sĩ nước Việt là sự khẳng định chân lý mạnh mẽ sẽ chiến thắng tà và thể hiện tinh thần dân tộc bất khuất, sẵn sàng hi sinh đến cùng để bảo vệ công lý và chính nghĩa. Cuối tác phẩm tác giả có để lại lời bình để đề cao bản lĩnh, tinh thần của những kẻ sĩ. Là kẻ sĩ thì phải biết đấu tranh đến cùng, bởi lẽ chỉ có đấu tranh mới đem lại phần thắng cho chính nghĩa. Bên cạnh việc đề cao chàng nho sĩ kiên cường vì dân trừ tà, truyện còn ngụ ý vạch trần bản chất xảo quyệt, hung ác của hồn ma tướng giặc họ Thôi. Vạch trần lớp màng thối nát, đầy rẫy những bất công của xã hội đương thời và nhắn nhủ hãy đấu tranh đến cùng chống lại cái ác, cái xấu xa. Thái độ của Ngô Tử Văn luôn một mực kêu oan, chàng không một lần nào nhụt chí hay khiếp sợ trước cảnh địa ngục. Trong con người của Ngô Tử Văn chỉ có quyết tâm, tinh thần chiến đấu vì lẽ phải, mang lại bình yên cho nhân gian. Tử Văn thắng kiện chứng tỏ cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, độc ác, tàn bạo thì ắt bị trừng phạt, phải mạnh mẽ đấu tranh, dám đương đầu, con người mới yên tâm lao động sản xuất. Câu chuyện về cuộc gặp gỡ của Ngô Tử Văn nay giữ chức quan phán sự đền tản viên với người quen cũ được tác giả đưa vào tác phẩm nhằm dụng ý thể hiện niềm tin của nhân dân vào vị quan phán thanh liêm, vì gian diệt ác, luôn giúp đỡ nhân dân.
Câu truyện được tác giả xây dựng trên cốt truyện giàu kịch tính kết cấu chặt chẽ, các tình huống truyện hợp lý nối tiếp nhau. Lời kể hấp dẫn, các tình tiết nói tiếp nhau cuốn hút người đọc. Các yếu tố kì ảo được sử dụng nhiều, nhưng vẫn mang nét hiện thực đan xen cách kể chuyện và miêu tả sinh động, hấp dẫn. Tất cả đã giúp tác phẩm đề cao được những người trung thực, ngay thẳng, giàu lòng nhân ái đồng thời khẳng định niềm tin vào công lý, chính nghĩa của nhân dân ta.
Phân tích Tản Viên từ Phán sự lục – Mẫu 14Người ta thường nói “Ánh nắng là nụ cười vui vẻ của các vị thần trên bầu trời, còn mưa lại chính là những giọt nước mắt của người”. Thần ban cho ta ánh sáng soi sáng vạn vật, phủ lên thế gian một màu vàng tinh tế mà mỹ lệ, là nguồn hy vọng mang trong mình sự trong sáng và thuần khiết nhất.
Nhưng người cũng ban cho ta bóng tối cận kề với người bạn ánh sáng của nó, che phủ vạn vật bằng màu đen u ám, chết chóc, che đậy đi tất cả mặt xấu xa nhất, tàn độc nhất của con người bên lớp vỏ bọc u tối đó.
Cũng giống như xã hội loài người vậy, đều có hai mặt, bóng tối và ánh sáng, một xã hội tràn ngập ánh đèn bất tận, bao trùm bởi nạn tham nhũng, mê tín dị đoan, sự tắc trách của các quan lớn đó, luôn có những tia sáng của sự quả cảm, tinh thần chính nghĩa hiển hiện và chiếu rọi thế gian. Xã hội đó được Nguyễn Dữ phát nét vô cùng chân thật trong tác phẩm “Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên”.
Có câu nói thế này “Yêu quái không đáng sợ, đáng sợ là yêu quái giả dạng thần tiên”. Bối cảnh câu chuyện có lẽ không mấy xa hoa, hào nhoáng, cũng không mấy đẹp đẽ, nhưng lại thể hiện rất rõ câu nói trên. Tại một ngôi làng thuộc huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang có một ngôi đền được bảo là linh ứng lắm, chả là cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, một vị tướng giặc họ Thôi tử trận gần ngôi đền, thế là vị tướng này ban ngày làm thần ban đêm làm ma quấy nhiễu dân làng, cướp ngôi đền từ tay Thổ công, giả mạo họ tên của ngài.
Vị Thổ công ấy muốn báo lên Diêm Vương nhưng khổ nỗi những đền miếu gần đây vì tham của đút, đều bên vực cho tướng giặc họ Thôi kia, có thể nói vị tướng giặc này quá khôn ngoan, hay nói vị Thổ công này quá lương thiện chăng? Lại tiếp tục câu chuyện, sau khi bị Ngô Tử Văn – nhân vật chính – đốt mất ngôi đền thì lại đến mắng chửi dọa dẫm chàng, bị chàng phớt lờ thì báo Diêm Vương, mặc dù bản thân chẳng đúng gì cả nhưng vẫn chối cãi và đổ tội cho chàng trai Tử Văn.
Thế nhưng, công lí lúc nào cũng chiến thắng, hắn ta không những không được xây lại ngôi đền mà còn bị bỏ vào ngục Cửu U, ngôi mộ của hắn cũng bị bật tung lên. Tác giả đồng thời phê phán cái ác, cái bất lương thông qua hình ảnh tướng giặc họ Thôi kia: khi sống làm giặc ngoại xâm, cướp bóc, giết hại dân làng; khi chết lại làm yêu quấy nhiễu nhân dân, tham lam, dối trá, xảo quyệt. Cùng với đó là phê phán hiện trạng xã hội đen tối, u ám: tham nhũng, đút lót.
Một xã hội đen tối không chỉ bởi sự tác động của việc làm, tham nhũng, đút lót là một mà một yếu tố quan trọng khác là sự tắc trách, xa dân của các quan lớn, quan trên mà ở câu chuyện này là hình ảnh của Diêm Vương, người phán xét công lí.
Chẳng những không hay biết gì về chuyện trên nhân gian, về sự hoàn thành của yêu quái, mà còn vội vàng kết luận, tin những lời bịa đặt hàm hồ của tướng giặc họ Thôi kia. Chuyện là sau khi vị tướng giặc họ Thôi kia thông báo việc Tử Văn đốt đền, Diêm Vương liền sai hai tên quỷ sứ lên bắt Tử Văn xuống âm ti hỏi chuyện.
Nói là hỏi chuyện nhưng trên thực tế, Tử Văn vừa xuống âm ti đã bị quy vào “Tội sâu ác nặng, không được vào hàng khoan giảm”. Đến khi được mời vào cửa điện âm phủ, Tử Văn lại bị đội thêm cái mũ “Là một kẻ hàn sĩ, dám hỗn láo”, “Mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc”. Ở nhân gian chẳng phải có câu “Trăm nghe không bằng mắt thấy” hay sao? Chẳng lẽ Diêm Vương lại không biết?
Thường nói, đền là nơi thờ cúng thần bà, ở đây là chỉ Thổ công, người người cúng bái khẩn cầu, mong được bình yên, an ổn. Mà những thứ như thần, Thổ công, Ngọc Hoàng,… chẳng qua cũng chỉ là do trí tưởng tượng của con người mà thành, họ mong muốn sẽ luôn có một vị đấng tối cao nào đó luôn cầu phúc cho họ, để họ được sống vui vẻ, tai qua nạn khỏi, tất cả đều gọi là tín ngưỡng.
Thế nhưng, hiện lên trên tất cả những thói hư, những điều chẳng mấy tốt đẹp đó là lòng dũng cảm, cương trực của chàng Ngô Tử Văn. Ngay từ chữ đầu tiên bắt đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu về Ngô Tử Văn là một người khảng khái nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được, là một người cương trực, được nhiều người khen ngợi. Và tất nhiên, không chỉ bằng những câu nói suông đó mà đã có thể bộc lộ hết được tính cách và tâm hồn cao đẹp của Tử Văn, mà nguồn sáng đó được tác giả hé mở từng chút một trong những hành động và thái độ của chàng.
Bởi lẽ tức giận trước cảnh yêu quái tác oai tác oái, Tử Văn đã quyết định đốt đền – nơi tướng giặc họ Thôi trú ngụ. Trước khi thực hiện, chàng tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi mới châm lửa đốt đền. Không những dũng cảm có lòng trừ hại cho dân, chàng còn là người có hiểu biết và tôn kính thần linh, trời đất, biết phân biệt được cái ác và cái thiện, không tin một cách mù quáng thần linh; hành động dứt khoát, tự tin cho thấy chàng tin tưởng vào việc làm của mình, việc làm chính nghĩa.
Sau khi đốt đền, Tử Văn lên cơn sốt nóng, tối đó có một vị khách tự xưng cư sĩ tới hăm dọa, chửi mắng, thế nhưng chàng vẫn ngồi ngất ngưởng tự nhiên, phớt lờ gã cư sĩ kia. Hành động đó lại càng thêm khẳng định vào việc chàng rất tin tưởng vào bản thân của mình, thái độ điềm nhiên cứ như chàng không phải là người bị đe dọa, hoàn toàn không bị khuất phục trước thần quyền.
Sau, chàng gặp được người tự xưng là Thổ công thì vô cùng kinh ngạc, cứ ngỡ người ban nãy là Thổ công, biết được sự tình từ người mới đến, chàng hỏi: “Hắn có thật là tay hung hãn”, không có ý hỏi, nhưng lại có ý châm biếm, bởi lẽ có câu thế này “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng” không phải sao? Tử Văn lắng nghe lời dặn dò của Thổ công, đêm đến bệnh càng thêm nặng, rồi bị hai tên quỷ sứ bắt đi.
Chàng bị dẫn xuống nơi “có quỷ Dạ xoa nanh ác, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương” – âm ti – liền bị chụp rằng “Tội sâu ác nặng”, chàng vẫn không sợ hãi mà dõng dạc kêu oan. Khi được mời vào cửa điện âm phủ, bị sự bắt tội của Diêm Vương, sự vu cáo bởi hồn ma tướng giặc họ Thôi, chàng không những run sợ mà yếu thế, ngược lại còn không chịu nhún nhường, kiên quyết định tội tên tướng giặc, đưa ra bằng chứng tố cáo được Thổ công kể cho.
Hành động này của chàng lại một lần nữa cho thấy chàng luôn tin vào việc làm chính nghĩa của mình, dũng cảm và tin vào công lý. Suốt cả câu chuyện, mỗi hành động của Tử Văn đều thống nhất với tính cách mà tác giả đã phát nét cho chàng ở đầu truyện. Qua hình ảnh chàng dũng sĩ Ngô Tử Văn, tác giả đã đề cao tính cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân, là một bài học đáng quý cho thanh thiếu niên bây giờ và cả mai sau.
Tác giả thật tài tình phác họa bức chân dung đối lập của hai nhân vật Ngô Tử Văn và tướng giặc họ Thôi về tính cách, con người và cả kết cục. Tướng giặc họ Thôi bị giam ở ngục Cửu U còn Tử Văn lại được phong cho chức phán xự ở đền Tản Viên, một chức vị xứng đáng cho chàng – phán xự – chức vị phán xét công lí. Từ đó, thể hiện niềm tin vào công lý, chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà.
Ánh sáng và bóng tối luôn đối lập với nhau, nhìn thì có vẻ ánh sáng luôn bị bao trùm bởi bóng tối, nhưng sự thực cho thấy rằng, cho dù không gian bóng tối đó có lớn bao nhiêu đi chăng nữa nhưng chỉ cần một tia sáng, tất cả bóng tối sẽ bị tan biến, thanh trừ tất cả những thứ xấu xa, ôm trọn lấy nó là ánh sáng ấm áp và thuần khiết. Cũng như câu chuyện trên, rồi ánh sáng cũng sẽ chiến thắng bóng tối.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Nhân Vật Cụ Mết Trong Tác Phẩm Rừng Xà Nu Dàn Ý & 8 Bài Văn Mẫu Lớp 12
I. Mở bài
– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, với nhiều tác phẩm đặc sắc.
– Rừng xà nu là khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
– Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi là cụ Mết.
II. Thân bài
– Ngoại hình:
+ Quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải láng bóng”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm
+ “bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.
– Cụ là người quắc thước và nghiêm nghị:
+ Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”: vừa thể hiện sức mạnh thể chất vừa thể hiện sức mạnh quyền uy của người chỉ huy.
+ Mỗi câu nói như một chân lí “không có gì mạnh bằng cây xà nu trên đất ta”, “cán bộ là Đảng, Đản còn, núi nước này còn”, “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.
– Cụ Mết có tình yêu quê hương sâu sắc
+ Dẫn Tnú ra máng nước đầu làng gội rửa, để nhắc nhở những ai đi xa nhớ về ngườn cội, quê hương.
+ Tự hào về tất cả mọi thứ trên quê hương: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”.
+ Vì muốn bảo vệ quê hương nên luôn tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”.
– Là người giàu tình yêu tình yêu thương:
+ Hết lòng thương yêu và tin tưởng Tnú – chàng trai trẻ có số phận bi tráng: nồng hậu đón Tnú trở về, xót thương khi nhìn những ngón tay còn hai đốt của Tnú, luôn động viên anh: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”
+ Xúc động khi kể lại cho dân làng nghe câu chuyện của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”
+ Nhận được muối, dù ít ỏi cụ vẫn chia đều cho mọi người trong buôn làng.
– Cụ Mết là người biết nhìn xa trông rộng: dự trữ lương thực đủ ăn để đánh giặc, biết rõ được sức mạnh chưa đủ khi chưa có vũ khí nên không liều mạng xông ra cứu Tnú,…
– Cụ chính là người chỉ đường dẫn lối. Là chỗ dựa tinh thần cho dân làng.
– Nhận xét: Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên, mang dáng vẻ của người anh hùng với sức mạnh phi thường trong sử thi.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận của bản thân về hình ảnh cụ Mết.
– Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …
– Thông qua câu chuyện của dân làng Xô Man, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩ lớn lao với dân tộc: Để cho sự sống của đất nước và nhân mãi trường tồn thì không có cách nào hơn là đoàn kết đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.
Nguyễn Trung Thành là nhà văn tiêu biểu cho nền văn học hiện đại. Tác phẩm của ông gắn liền với con người và vùng đất Tây Nguyên. “Rừng Xà nu” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông viết về con người và vùng đất Tây Nguyên được sáng tác vào năm 1965 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Qua truyện ngắn ta thấy được sự anh hùng quả cảm của người dân Tây Nguyên. Cụ Mết là trưởng bản của dân làng Xôman. Tuy không xuất hiện ở đầu tác phẩm nhưng mỗi lần xuất hiện đều toát lên vẻ oai hùng, sự quả cảm của người cầm đầu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ngay từ khi xuất hiện ấn tượng mạnh mẽ của người già làng đó là hình ảnh bàn tay trắc nịch nắm chặt lấy tay Tnú Như một cái kìm. Ông cụ với khuôn mặt quắc thước râu dài tới ngực. Những vết sẹo trên người láng bóng, ngực căng lên như những cây xà nu đang đứng hiên ngang trước gió bão. Từ những chi tiết đó ta phần nào hình dung ra một người cường tráng, khỏe mạnh, oai hùng. Một con người từng trải, kiên cường và không sợ bất cứ thứ gì.
Nhân vật cụ Mết hiện lên với nét tính cách cá biệt. Giọng nói của ông được tác giả miêu tả ồ ồ vang cả núi rừng Tây Nguyên. Giọng nói như sấm truyền, ngôn ngữ giản dị, dứt khoát thể hiện được sự quyết đoán của người đứng đầu. Tiếng nói ấy vang lên khi hô hào người dân Xô man đứng lên nổi dậy đấu tranh, tha thiết nghiêm trang khi nhắc nhở con cháu người dân làng Xô man:” Nghe rõ chưa? Nhớ lấy! Ghi lấy” Mỗi lần giao việc cho ai, cụ không bao giờ khen mà chỉ nói “Được” để động viên khích lệ, không ngừng cố gắng. Nhưng mỗi lần cụ nói đều chắc nịch thể hiện mệnh lệnh.
Không chỉ là người tù trưởng tài ba, kiên cường, cụ Mết còn là người con yêu thương quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương. Khi Tnú trở về, cụ dẫn ra đầu làng để dội rửa nhắc nhở luôn phải nhớ về quê hương. Cụ luôn tâm niệm nhắc nhở con cháu: “Đảng còn, núi nước này còn” một lòng kiên trung với cách mạng với Đảng và nhà nước. Tình yêu đó cũng chính xuất phát từ tình yêu quê hương.
Vẻ ngoài quắc thước nghiêm nghị nhưng sâu trong con người đó lại là tình yêu thương con người, yêu thương đồng bào. Tnú trở về sau 3 năm xa quê hương, cụ đã chào đón nồng nhiệt, tạo cho Tnu cảm giác như trở về với gia đình. Kể cho dân làng nghe về câu chuyện gia đình Tnú mà cụ không kìm nổi tiếc thương xúc động. chính hành động, cử chỉ nhỏ ấy đã cho thấy được tấm lòng bao la nhân hậu của cụ Mết.
Trong vai trò của một người già làng thời đánh Mỹ, cụ Mết hiện lên là một cây xà nu lớn vững chãi là chỗ dựa tinh thần cho dân làng, đồng bào Xô man. Cụ luôn trung thành với Đảng, một lòng kiên trung theo cách mạng. Không những thế, cụ Mết còn là người có tầm nhìn xa trông rộng, biết chăm lo cho cuộc chiến đấu chung của dân làng. Luôn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt, đưa ra những đường lối đấu tranh đúng đắn cho dân làng. Với trí tuệ sắc sảo của một người đứng đầu cụ Mết không chỉ gợi nhớ lại sự kiện đau thương, chiến thắng oanh liệt một thời mà còn khẳng định một chân lí đúng đắn: “Chúng nó đã cầm súng thì chúng ta phải cầm giáo”.
Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, cụ Mết hiện lên là một già làng, tộc trưởng vô cùng oai hùng. Cụ Mết chính là linh hồn của người dân Xô man đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh thắng lợi, đi theo con đường cách mạng đúng đắn. Hình ảnh cụ Mết tuy xuất hiện không nhiều nhưng đã lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc, một vị anh hùng truyền lửa tựa như cây xà nu hiên ngang trước giông bão cuộc đời.
Ta có thể nhận thấy rằng ngay khi vừa xuất hiện, ấn tượng về một vị già làng mạnh mẽ đã thể hiện trong chi tiết “một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt”. Tác giả Nguyễn Trung Thành như đã vẽ những nét vẽ ngoại hình về một cụ già “quắc thước … mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng … ngực căng như một cây xà nu lớn” . Và những câu văn như đã khắc họa hình ảnh của một già làng sắc sảo, kiến nghị, vững chãi qua đó nói lên được vẻ tiềm tàng sức mạnh thể chất, tràn trề uy lực tinh thần, có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ với cộng đồng.
Và dường như ở hầu như nét miêu tả nào ở cụ Mết cũng có tính cá biệt. Qua chính những cách nói như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát thể hiện sự quyết đoán của những người đứng đầu. Hay cả những việc cụ không bao giờ khen, khi vừa ý nhất cũng chỉ nói “được” là tính cách của những người luôn yêu cầu cao ở người khác cũng như ở chính mình. Có thể thấy đặc biệt ấn tượng ở cụ Mết mà người đọc có thể nhận thấy đó chính là giọng nói, đó là “tiếng nói ồ ồ đội vàng trong lồng ngực”, tiếng nói ấy hoặc “vang” khi hô hào dân làng Xô Man nổi dậy đánh giặc hoặc “trầm và nặng” như tiếng vọng của núi rừng. Và đó chính như lời phán truyền của quá khứ khi kể chuyện về cuộc đời Tnú, về lịch sử oanh liệt của làng, tiếng nói ấy tha thiết trang nghiêm khi nhắc nhở dân làng và con cháu: “Nghe rõ chưa các con? Rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy!…”
Hình ảnh cụ Mết được hiện lên là người có tình yêu sâu sắc, sự gắn bó máu thịt với quê hương
Khi mag nhân vật Tnú đi xa về, cụ đã dẫn anh ra máng nước đầu làng dội rửa, bằng việc ấy, cụ như muốn nhắc nhở người con xa quê. Và cho dù có đi tới phương trời nào cũng phải ghi nhớ và trân trọng nguồn cội thiêng liêng của quê hương. Nói chuyện với Tnú thì dường như ở cụ luôn tự hào khẳng định bằng cách nói tuyệt đối, cũng có thể có phần hơi cực đoan, thái quá, cách nói quen thuộc của lòng yêu: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” và câu “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”. Dường như đối với cụ Mết, quê hương hiện lên thật đẹp đẽ và lớn lao, thiêng liêng và thân thuộc. Đó chính là hình ảnh dòng nước trong nguồn, hạt gạo trên nương cho tới những cánh rừng xà nu bạt ngàn, mạnh mẽ và cường tráng biết bao nhiêu
Và ta như thấy ở cụ Mết luôn luôn tâm niệm và dặn dò con cháu rằng “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Như vậy, người đọc cũng có thể thấy tấm lòng trung thành với Đảng và cách mạng của cụ Mết cũng xuất phát từ tình yêu sâu sắc với rừng núi quê hương. Và như chính như bên trong con người có vẻ ngoài quắc thước, nghiêm nghị ấy lại là một trái tim trĩu nặng tình thương yêu đối với dân làng
Nhất là khi Tnú trở về thăm làng sau ba năm đi lực lượng, cụ Mết đã đón anh bằng tấm lòng yêu thương nồng hậu của một người cha, và cụ Mết đã quyết định anh ở nhà cụ trong đêm về làng, động viên khích lệ anh rằng “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”. Chính chi tiết này ta như có thể thấy được cụ Mết dường như đã đem đến cho Tnú- một người con bất hạnh của dân làng Xô Man thấy được một cảm giác ấm áp của gia đình khi trở về làng. Và khi ngồi ăn cơm với Tnú, nhìn hai bàn tay cụt đốt của anh, “ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ”, đó chính là một trong những biểu hiện sâu sắc nhất của nỗi đau đớn xót thương cho Tnú. Và dường như những nỗi căm giận kẻ thù tàn bạo không thể nguôi ngoai. Và việc khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú,mặc dù câu chuyện đã xảy ra tới ba năm nhưng dường như ở cụ cũng không kìm nổi sự tiếc thương vô hạn và đau đớn và xúc động, cụ Mết thật “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt” như muốn che giấu lòng mình vậy. Nhưng người đọc có thể cảm nhận được chính cử chỉ vụng về ấy đã bộc lộ trái tim nhân hậu và tình yêu sâu sắc của cụ với dân làng.
Và khi nhận được gói muối quý giá từ những người đi xa về cụ Mết đã luôn luôn chia đều cho các bếp trong làng, để dành cho những người đau ốm. Đó chính là vị mặn của những hạt muối nhỏ bé cũng là vị mặn đậm đà của tình yêu thương trong trái tim người già làng.
Có thể thấy được trong vai trò của một già làng thời đánh Mỹ, cụ Mết kiên cường, vững chãi như một cây xà nu lớn. Và hình ảnh cụ Mết chính là chỗ dựa tin cậy của dân làng, có sức lôi cuốn mạnh mẽ với dân làng. Và hình ảnh cụ Mết lại luôn luôn giữ cho mình tình yêu, niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng. Câu nói nổi tiếng và chất chứa tình cảm của cụ với Đảng là “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”
Có thể nhận thấy ở trong làng, cụ cũng là người đứng đầu biết nhìn xa trông rộng, biết lo cho cuộc chiến đấu chung của dân làng. Cụ cũng như đã ân cần và động viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi “đánh Mỹ phải đánh dài”. Qua nhân vật cụ Mết dường như cũng đã thể hiện vai trò của một già làng tỉnh táo, sáng suốt để có thể kiềm chế nổi những đau đớn và căm hờn ngay trong giây phút khốc liệt nhất,và quan trọng hơn nữa là đã tìm ra con đường đúng đắn nhất lãnh đạo dân làng nổi dậy cầm vũ khí tiêu diệt kẻ thù. Có thể thấy được trước cái chết của vợ con Tnú, trước cảnh Tnú bị bắt trói, tra tấn dã man kai thì cụ Mết đau đớn nhưng tỉnh táo, không để tình cảm chi phối. Cụ Mết dường như cũng đã nhắc đi nhắc lại: “Tao cũng chỉ có hai bàn tay không. Tao quay vào rừng… tìm bọn thanh niên… tìm giáo mác”. Có thể thấy chính lý trí sáng suốt cần thiết của một già làng, một người đứng đầu, và cụ còn là người chịu trách nhiệm với sự sống còn của cả cộng đồng đã giúp cụ Mết cùng với dân làng chiến đấu và chiến thắng quân giặc tàn bạo.
Cùng với những sự trí tuệ sắc sảo của một người đứng đầu, cụ Mết không chỉ nhắc tới sự kiện đau thương và chiến thắng oanh liệt của dân làng trong đêm ấy như một kỷ niệm. Ở cụ đã khái quát, dường như cũng đã đúc kết và khắc sâu quy luật tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng là“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Có lẽ chân lý ấy đã được rút ra từ chính những trang sử đầy máu và nước mắt của làng Xô Man, thông qua giọng kể “trầm và nặng” của già làng là cụ Mết. Chắc chắn nó sẽ trở thành lời phán truyền thiêng liêng của lịch sử cho các thế hệ con cháu.
Cụ Mết chính là một hình tượng nhân vật đẹp gợi nhớ hình ảnh những già làng, tộc trưởng trong sử thi, thần thoại, truyền thuyết, và dường như có cả trong những bản trường ca Tây Nguyên xưa. Sử dụng bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành đã cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong nền cảm hứng chung của văn học giai đoạn 1945 – 1975 dường như ta như cũng đã khiến chó nhân vật không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Và cũng chỉ qua việc thông qua nhân vật cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã ca ngợi lòng yêu nước, ca ngợi những người anh hùng và cả tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong thời đánh Mỹ. Và lớn hơn đó cũng đồng thời khái quát chân lý lịch sử lớn lao của thời đại, lý giải sâu sắc cũng như rất thuyết phục con đường giải phóng nhân dân, đất nước.
Mỗi mảnh đất trong cuộc kháng chiến của dân tộc đều gắn liền với hình ảnh riêng của mỗi nhà văn. Nếu như nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với mảnh đất miền Nam ruột thịt, thì Tây Nguyên là nơi ghi dấu nhiều kỉ niệm, nhiều hình ảnh đẹp trong ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Tiêu biểu cho các sáng tác đó là tác phẩm Rừng xà nu(1965) được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, tác phẩm là sự ghi dấu về hiện thực của nhân dân đồng bào Tây Nguyên anh dũng chiến đấu chống đế quốc Mĩ, cuộc chiến không chỉ là của riêng thế hệ trẻ dân làng Xô-man Tnú, Rít, Mai, bé Heng… Mà còn là sự lãnh đạo của người đứng đầu làng là Cụ Mết. Một hình tượng của cây xà nu đại thụ – một biểu tượng chung cho sức mạnh và sự bền bỉ trong chiến tranh và là biểu tượng linh hồn riêng của làng Xô-man.
Cụ Mết không xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm nhưng sự xuất hiện của cụ qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng thực sự để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt… Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng!.. ngực căng như một cây xà nu lớn…” Nhà văn đã tập chung miêu tả ngoại hình từ ngay những dòng văn đầu tiên nói về cụ. Qua đó cụ Mết hiện lên với một thân hình khỏe mạnh, hùng tráng; bộ râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng cho thấy cụ mang dáng dấp đúng của một người già làng; đôi mắt sáng xếch ngược hiện lên một con người có trí tuệ tinh nhanh và uy cường. Với chút miêu tả đó nhà văn cũng đã phần nào chứng tỏ được Cụ Mết là sức mạnh của núi rừng Tây Nguyên. Nhưng không chỉ dừng lại đó nhà văn còn miêu tả về giọng nói của cụ Mết với một giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” không chỉ minh chứng cho sức ngân vang của cụ mà còn khẳng định sự lãnh đạo và chỉ huy được đám đông làng Xô-man. Cách nói của cụ như ra lệnh; không bao giờ cụ khen tốt hay giỏi nếu vừa ý thì nói “Được!”. Mệnh lệnh chiến đấu phát ra chắc nịch đó được thể hiện trong đêm Tnú bị giặc đốt mười ngón tay, “Chém! Chém hết!” của cụ như tiếng sấm bên tai không chỉ thúc giục tinh thần trong mỗi người xông lên cứu Tnú, mà còn phần nào đã khiến cho bọn thằng Dục bị đòn bất ngờ và có phần khiếp sợ. Nhưng giọng nói cụ Mết cũng thật đầm ấm, trang nghiêm, linh thiêng như một huyền thoại – đó là khi cụ Mết kể về câu chuyện của Tnú cho dân làng Xô-man. Mọi người vây quanh đống lửa trong không gian của nhà ưng và nghe cụ kể về Tnú với “tiếng nói rất trầm”. Qua đó, bạn đọc có thể thấy cụ Mết hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh dân tộc của các đồng bào vùng Tây Nguyên, là niềm tự hào của cộng đồng dân làng Xô-Man. Giọng nói của cụ như là tiếng của cội nguồn,của núi rừng, của lịch sử, lời nói của cụ là sấm truyền sử thi, đó còn như những phán quyết của lịch sử, là sức mạnh hào hùng của thời đại.
Trong mối quan hệ với Đảng và Cách mạng, cụ Mết càng là sợi dây gắn kết dân làng với lí tưởng, chỉ dẫn của Đảng, bởi cụ luôn có niềm tin sâu sắc vào những đường lối của Đảng, tinh thần này càng được giáo dục một cách nghiêm khắc cho đám đông làng Xô-man để khắc cốt ghi tâm. Đã có lần cụ từng khẳng định niềm tin ấy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn.” Nhưng quan trọng hơn là cụ Mết đã đưa chân lí đó vào thực tiễn của cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc Mĩ bằng những chân lí thật giản dị: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống kể lại cho con cháu: Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo!…” Nhờ vào ý thức luôn giáo dục truyền thống vẻ vang của làng cho các thế hệ tiếp cận đó mà dân làng Xô-man giữ được truyền thống kiên cường bất khuất, khả năng giữ bí mật tuyệt đối, để làng Xô-man mãi tự hào khi trong suốt 5 năm kháng chiến chưa có cán bộ nào bị giặc bắt hay bị giết trong cánh rừng xà nu này. Nhưng để hiểu vì sao cụ Mết lại có niềm tin sâu sắc vào Đảng thì đó chính là nhờ vào sự am hiểu tường tận và giành giọt đường lối kháng chiến. Không chỉ là phương châm kháng chiến lấy bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng (chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo). Mà đặc biệt hơn cụ còn am hiểu về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc: “đánh thằng MĨ phải đánh lâu dài”. Ngoài ra, qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành ta còn thấy được tính kỉ luật cao trong con người cụ Mết qua cách chỉ huy dân làng khi trốn vào rừng lánh giặc chờ đợi thời cơ tiến hành khởi nghĩa: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông”. Chính vì thế, cụ Mết được nhà văn miêu tả với hình tượng một cây xà nu đại thụ trong rừng xà nu, luôn là bóng lớn cho dân làng Xô-man chống bọn đế quốc Mĩ, góp phần vào sự thành công của cuộc cách mạng trong cả nước.
Khi nói đến nhân vật cụ Mết trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành, không thể không nói đến phẩm chất cao quý của cụ đối với Tnú, đối với dân làng Xô-man. Qua ngòi bút của nhà văn, cụ Mết hiện lên là một con người có lòng yêu dân làng, yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Đối với Tnú, cụ luôn lấy anh làm tấm gương cho thế hệ trẻ noi theo, để học tập anh mà một lòng theo cách mạng, tiêu biểu cho sự giáo dục của cụ là bé Heng – bé Heng đã tiếp thu truyền thống của anh Tnú qua cách giáo dục của cụ Mết. Trong lòng cụ, Tnú hiện lên chân thật với “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Cụ thương những người dân làng Xô-man như người thân trong nhà với một sự đùm bọc, lãnh đạo che chở cho tất cả các thành viên. Từ đó, mà cụ trở thành người cha tinh thần, người truyền ngọn lửa tự do, và là linh hồn cuộc khởi nghĩa đồng khởi của dân làng Xô- man.
Cụ Mết không phải là nhân vật chính trong ngòi bút của nhà văn.Nhưng qua tác phẩm,ta cũng thấy được vai trò to lớn của cụ Mết trong việc tô thắm hình tượng nhân vật Tnú với lối kể chuyện lồng trong chuyện qua chuyện một đêm của làng Xô-man. Hình ảnh cụ Mết khiến ta liên tưởng tới nhân vật chú Năm trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”.Hai con người ở hai vùng miền nhưng trong cùng một thời đại, là thế hệ đi trước, là lịch sử, là người giữ lửa và truyền ngọn lửa cho các thế hệ trẻ, là tinh thần của dân tộc góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cả nước vào một ngày giải phóng hoàn toàn đất nước, dân tộc được tự do.
Hình ảnh cụ Mết tuy xuất hiện ít qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành, nhưng những gì nhà văn miêu tả về người già làng với một lòng theo Đảng, tin tưởng cách mạng càng làm thêm giá trị cho tác phẩm Rừng xà nu có sức âm vang tới hôm nay và mai sau. Trong lòng bạn đọc, cụ Mết mãi là hình tượng bất tử của cây xà nu đại thụ vươn sức bảo vệ cho thế hệ trẻ phát triển để thực hiện thắng lợi thành công cuộc cách mạng dân tộc này.
Nguyễn Trung Thành là một nhà văn tiêu biểu cho nền văn học hiện đại, cách mạng của dân tộc Việt Nam. Những tác phẩm của Nguyễn Trung Thành thường gắn liền với những số phận người con vùng Tây Nguyên. Những người dân chất phác, hiền hậu, nhưng vô cùng anh dũng, kiên cường, luôn một lòng một dạ hướng về sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, căm thù cái ác, căm thù giặc sâu sắc.
Trong tác phẩm “Rừng xà nu” bên cạnh những nhân vật anh hùng như Tnú, Mai, là những người đại diện cho lớp trẻ, kiên cường, bất khuất, như những cây xà nu non tới lúc trưởng thành. Thì nhân vật cụ Mết lại là hình ảnh đại diện của cây xà nu cao lớn trường thành, vững trãi, đã trải qua những thời kỳ giông bão, để trở nên hiên ngang, không gì có thể lung lay được.
Cụ Mết là một nhân vật góp phần làm cho tính sử thi trong tác phẩm trở nên đậm nét hơn. Cụ Mết giống như người già làng, trưởng bản kiên cường, là linh hồn của bản làng của núi rừng Tây Nguyên, là người dẫn dắt lớp trẻ đứng lên tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi kiếp nô lệ, hướng những người trẻ đi theo những giá trị chân chính.
Ngay từ khi xuất hiện, người đọc đã cảm nhận được rằng cụ Mết là người vô cùng mạnh mẽ thể hiện trong những chi tiết mà tác giả nêu ra “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt”.
Tuy đã qua thời kỳ xuân xanh không còn ở tuổi trai tráng lực lưỡng nhất nhưng cụ Mết vẫn giữ được uy lực của một người già làng, trưởng bản, một con người cả cuộc đời hiên ngang, quen dầm mưa dãi nắng, được núi rừng tô luyện cứng như đá, kiên cường, quắc thước….Không sợ bất kỳ một thế lực nào, hiên ngang, sừng sững..
Cụ Mết như những cây xa nu đã trưởng thành dù mưa bão cũng không làm lung lay được. Mưa bão chỉ có thể quật ngã làm đổ những cây non, những cây không đủ sức chống đỡ với bão táp, còn những cây xà nu trưởng thành thì không có gì làm nó gục ngã.
Trong tính cách của mình cụ Mết cũng là người vô cùng đặc biệt. Thông qua những câu nói vô cùng uy lực khi ra lệnh cho mọi người. Dù chỉ là những câu nói giản dị, nhưng chứa đựng tinh thần quyết đoán của người đứng đầu. Cụ Mết không có thói quen khen ngợi người khác, tâng bốc người ta lên mây xanh, mà mỗi khi hài lòng một việc gì đó cụ Mết chỉ gật gù cái đầu và nói ‘được”.
Tiếng nói của cụ Mết là những âm thanh vô cùng vang động “tiếng nói ồ ồ dội vang trong lồng ngực” là tiếng nói của một người ngay thẳng, không bao giờ nói hai lời.
Cụ Mết cũng là người vô cùng yêu quê hương đất nước, yêu bản làng núi rừng Tây Nguyên của mình. Cụ cũng là người có trái tim vô cùng nhân hậu, khi cha mẹ của Tnú mất đi bỏ Tnú ở lại thế giới trần gian một mình. Chính cụ Mết đã mang Tnú về nuôi, coi Tnú như con cháu trong nhà dạy cho Tnú biết săn bắn, biết sống như những cây xà nu hiên ngang sừng sững.
Khi T nú đi xa trở về cụ Mết thường dẫn anh ra suối tới những chỗ có máng làm bằng tre trở nước từ thượng nguồn về cho T nú gội đầu để gợi cho anh những kỷ niệm của quê hương, của mảnh đất thân thương gắn liền với mỗi người dân ở đây.
Trong những câu chuyện của mình kể cho T nú nghe cụ Mết luôn thể hiện cho T nú thấy sức mạnh của cây xà nu của làng. Muốn cho T nú thấy rằng anh cần phải yêu mảnh đất này, cần sống như những cánh rừng xà nu kia, kiên cường, bất khuất dù mưa gió, súng đạn có bắn phá xuống thì cánh rừng xà nu vẫn luôn vươn lên xanh tốt, như sức sống mãnh liệt của những người con núi rừng Tây Nguyên.
Cụ Mết cũng là người yêu cách mạng, giác ngộ cách mạng sâu sắc chính vì vậy mà ông cụ luôn dặn con cháu rằng “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn” đây là những câu nói của một con người có lòng trung thành với tuyệt đối với con đường cách mạng mà mình đã chọn. Ông yêu quê hương của mình và cũng chính vì yêu nên ông muốn bảo vệ nó cho tới cùng, để bảo vệ quê hương mảnh đất thân yêu này thì chỉ con đường duy nhất là con đường theo cách mạng.
Khi Tnú đi bị giặc dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, cả bàn tay nay chỉ con hai ngón. Anh trở về làng cụ Mết đón anh bằng tấm lòng của một người cha, vô cùng thương yêu Tnú ông cụ còn động viên tinh thần cho anh “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”.
Trong những câu nói của mình ông đều thể hiện một tinh thần vô cùng quyết tâm, không chịu khuất phục, không vì thế mà lùi bước, trở thành người tàn phế. Ông dạy Tnú tinh thần kiên cường, hiên ngang dù cái chết có thể cận kề bất cứ lúc nào.
Câu nói của cụ Mết cũng giúp cho Tnú giải tỏa được những muộn phiền ở trong lòng, khi anh cảm thấy cuộc đời mình không phải như thế đã trở thành vô dụng. Anh có thể làm rất nhiều việc khác, vẫn có thể tiếp tục chiến đấu, cống hiến sức mình cho cách mạng, cho con đường bảo vệ quê hương mà anh đã chọn.
Cụ Mết thương Tnú như thương con trai mình. Ông cụ chăm sóc Tnú từ bé, nên khi nhìn con trai mình bị đốt mười đầu ngón tay trong bữa cơm. Ông cụ giận dữ ném chén cơm xuống. Đó là nỗi lòng căm thù, hận tới tận xương tủy lũ giặc tàn ác đã khiến cho Tnú của ông bị như vậy.
Mỗi lần ông cụ nhắc lại chuyện cũ, những tội ác mà lũ giặc đã gây ra thì những giọt nước mắt của ông lại rơi xuống, ông cụ lấy tay lau những giọt nước mắt một cách vụng về, như đang cố kìm nén nỗi xúc động trong lòng mình.
Không chỉ là trụ cột về tinh thần, của dân làng Xô Man cụ Mết còn là người có con mắt chiến lược nhìn xa trông rộng. Cụ luôn lo lắng cho những cuộc chiến của người dân, luôn động viên người dân làng phải biết tích lũy lương thực vì cuộc kháng chiến chống Mỹ còn dài, không phải kết thúc trong ngày một ngày hai được.
Trong tác phẩm “Rừng xà nu” cụ Mết chính là hình tượng vô cùng đẹp như một tộc trưởng, già làng vô cùng oai hùng. Cụ Mết chính là linh hồn là người dẫn dắt dân làng Xô Man đi theo con đường chính đạo, đi theo con đường giải phóng dân tộc, giác ngộ cách mạng căm thù cái ác.
Trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành, nếu được hỏi nhân vật nào là một chứng nhân lịch sử đi cùng những biến cố thời đại và con người của dân làng Xô Man thì có lẽ câu trả lời chính là cụ Mết. Dù không xuất hiện nhiều hay được miêu tả nhiều trong câu chuyện tuy nhiên cụ Mết lại đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của Tnú, của quá trình đấu tranh của dân làng Xô Man.
Cụ Mết là một già làng, có thể nói là trưởng làng của buôn làng Xô Man. Cụ là người đàn ông mạnh mẽ, nghị lực và đầy khí phách. Khí phách của cụ đã được tác giả miêu tả qua ngoại hình: cụ có khuôn mặt quắc thước, đôi mắt đen sáng, râu dài tới ngực và có bộ ngực cường tráng, tiếng nói vang ồ ồ trong lồng ngực. Cách miêu tả ngoại hình của cụ Mết cũng cho thấy đây là một con người rất mạnh mẽ, dứt khoát và đầy khí thế. Cụ là người đứng đầu buôn làng Xô Man, đóng vai trò cầm cân nảy mực, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của người dân trong buôn làng.
Cụ Mết cũng là nhân vật được miêu tả đậm chất sử thi, tính sử thi được biểu hiện thông qua con người cụ từ ngoại hình, tính cách đến hành động của cụ. Cụ rất nghiêm nghị, quắc thước. Khi Tnú về thăm làng, cụ yêu cầu mọi người ngồi vây quanh mình, im lặng để cụ kể chuyện về cuộc đời của Tnú. Và tất cả mọi người kể cả người già, kể cả trẻ nhỏ quả nhiên đã ngồi lặng im lắng nghe từng câu nói của cụ Mết.
Khi Tnú chứng kiến vợ con mình chết và chính bản thân anh cũng lao ra để rồi bị giặc tra tấn thì cụ Mết chính là người cầm quân, dẫn đầu buôn làng tiến lên chiến đấu. Tiếng nói của cụ Mết như là một hiệu lệnh mà tất cả bà con trong buôn làng đều nghe theo. Cụ hô hào mọi người đứng dậy và bản thân cụ là người đi đầu, trực tiếp lao vào quân địch mà chiến đấu.
Mỗi khi ai đó làm tốt một việc gì, cụ chỉ gật đầu khen “được” đó là một câu nói chất chứa nhiều cảm tình nhưng cũng đầy hi vọng vào tương lai, muốn con cháu của buôn làng phát huy hơn nữa, không tự kiêu mà bỏ quên nhiệm vụ. Con người cụ Mết là vậy nên luôn được Tnú kính trọng, được cả dân làng Xô Man kính trọng. Tnú khi về cũng đến thăm và chào hỏi cụ, lắng nghe cụ nói với một thái độ cung kính. Dân làng thì chỉ chờ và làm theo những hiệu lệnh của cụ. Coi cụ như một hình mẫu mực thước để tất cả cùng noi theo.
Con người cụ Mết, cũng giống như Tnú cũng như những cánh rừng xà nu đều hiên ngang bất khuất, mang đậm dấu ấn sử thi kiên cường vững chãi trước bão tố cuộc đời, trước hoàn cảnh lịch sử đầy tai biến.
Cụ Mết một lòng trung thành với Đảng, với cụ Hồ, với cách mạng. Khi thấy Tnú về và đạt được những chiến tích nhất định trong chiến đấu, cụ mừng lắm, cụ luôn tỏ thái độ tôn kính đối với Bác, với cộng sản. Cụ dù tuổi đã cao nhưng vẫn là một cây xà nu đại thụ giữa cánh rừng xà nu đại ngàn của núi rừng Tây Nguyên.
Nếu không có cụ Mết có lẽ câu chuyện về cuộc đời Tnú, về buôn làng Xô Man sẽ không được kể hoặc sẽ được kể trên một phương diện khác, cái nhìn khác. Cụ Mết chính là người giữ lửa, truyền lửa, truyền tinh thần yêu nước, nhiệt huyết cách mạng đến tất cả các thành viên trong buôn làng Xô Man. Cụ cũng là một biểu tượng anh hùng, một con người sử thi đối với câu chuyện Rừng xà nu nói riêng và đối với cả buôn làng Xô Man nói chung.
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành qua những cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông viết rất nhiều tác phẩm gắn liền với những con người và mảnh đất núi rừng Tây Nguyên hoang sơ hùng vĩ. Thể hiện sự gắn bó của nhà văn với những con người nơi đây.
Tiêu biểu cho phong cách của tác giả chính là truyện ngắn “Rừng xà nu” được xuất bản năm 1965 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Truyện ngắn thể hiện sự anh hùng kiên cường quả cảm của những người dân Tây Nguyên. Hình ảnh những người dân làng Xô Man mà đứng đầu chính là cụ Mết chính là hình tượng cây xà nu anh hùng đại thụ vượt qua nhiều trận bom rơi, đạn nổ nhưng vẫn kiên cường hiên ngang trong gió bão.
Cụ Mết chính là linh hồn của người dân làng Xô Man, là người soi đường cho những thế hệ trẻ đi theo con đường yêu nước, con đường cách mạng của dân làng. Nhân vật cụ Mết được coi như già làng trưởng bản của làng Xô Man, cụ Mết không xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm nhưng mỗi lần xuất hiện đều toát lên vẻ oai hùng, của một người lãnh đạo cầm đầu, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc. Một bàn tay chắc nịch nắm lấy vai Tnú như một kìm sắt, khi anh nhìn cảnh Mai và con mình bị hành hạ, Tnú định từ gốc cây chạy ra nhưng bàn tay cụ Mết đã giữ anh lại.
Ông cụ có khuôn mặt quắc thước ấy râu dài tới ngực, đen bóng đôi mắt ông sáng lên, những vết sẹo trên người cũng láng bóng, ngực căng lên như một cây xà nu lớn trưởng thành qua gió bão. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cụ Mết bằng những câu văn miêu tả một vị anh hùng, một già làng tộc trưởng được vạn người kính trọng. Qua những nét vẽ đó ta thấy được cụ Mết là người vô cùng cường tráng, khỏe mạnh có diện mạo quắc thước, minh mẫn thể hiện sự nhanh nhẹn trong hành động lời nói và trí tuệ.
Trong nhân vật này chứa đựng sự trưởng thành của một con người từng trải đã trải qua nhiều nắng gió của thời gian, của những khó khăn vất vả tạo thành một con người kiên cường bất khuất không sợ gì. Trong giọng nói của cụ Mết tác giả Nguyễn Trung Thành miêu tả cụ có giọng nói ồ ồ vang rộn cả núi rừng Tây Nguyên. Những lời nói của cụ tựa như sấm truyền. Mỗi lần cụ nói như ra lệnh không bao giờ khen tốt hay giỏi với bất kỳ ai mà chỉ nói những lời nói mang tính chất khích lệ như “Được”. Nhưng mỗi lời ông cụ nói đều chắc nịch thể hiện một mệnh lệnh.
Trong lúc Tnú bị bọn thằng Dục tay sai bắt và tra tấn dã man lúc chúng tẩm nhựa xà nu vào mười đầu ngón tay Tnú và đốt trong khoảnh khắc ấy từ “Giết” của cụ Mết vang lên như một lời sấm truyền. Cụ đã chính tay giết chết tên Dục rồi cùng dân làng Xô Man cứu Tnú thoát khỏi vòng vây sự tra tấn của kẻ thù. Khi Tnú cùng quẫn, bất động vì vợ con bị giết chết, mười đầu ngón tay bị thiêu đốt còn hai nhưng cụ Mết chính là người đã cho anh sức mạnh, cho anh thêm nghị lực để tiếp tục đứng lên chiến đấu với kẻ thù. Cụ Mết nói “Không có tay cũng có thể dùng súng giết giặc”.
Cụ Mết luôn trung thành với Đảng với cụ Hồ Chí Minh đó là tình cảm sâu sắc mà cụ dành cho quê hương thể hiện sự trung thành của một người con dân tộc. Tác giả Nguyễn Trung Thành khi nói tới nhân vật cụ Mết đều dùng những từ ngữ vô cùng thành kính sâu sắc thể hiện sự yêu mến quý trọng của tác giả với nhân vật này.
Đối với Tnú hay những đứa trẻ trong làng Xô Man thì cụ Mết luôn là một tấm gương sáng để cho thế hệ sau phải noi theo. Tình yêu quê hương, trung thành với cách mạng của Tnú, của bé Heng, bé Dít đều do cụ Mết truyền lửa. Cụ Mết chính là người cha già của dân làng Xô Man, là người soi sáng tinh thần, truyền ngọn lửa tự do cho những người dân nơi đây.
Hình ảnh cụ Mết tuy xuất hiện không nhiều trong tác phẩm Rừng xà nu nhưng lại là nhân vật vô cùng quan trọng, thông qua những gì mà nhà văn miêu tả về nhân vật này thì cụ Mết chính là già làng với tinh thần yêu nước sâu sắc một lòng tin tưởng vào cách mạng, vào Bác Hồ. Cụ Mết đã đọng lại trong lòng người đọc bởi hình ảnh mạnh mẽ, anh hùng, một người truyền lửa cho những người dân làng Xô Man, cụ tựa như cây xà nu trưởng thành hiên ngang, kiên cường trong gió bão.
Advertisement
Trong thời đại chống Mĩ, chủ nghĩa yêu nước là nội dung xuyên suốt trong văn học Việt Nam. Nó bùng cháy mạnh mẽ và phát triển lên một bước mới thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bởi vậy, trong các tác phẩm không chỉ xuất hiện của những cá nhân anh hùng, xuất chúng mà còn xuất hiện cả tập thể anh hùng. Trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành bên cạnh nhân vật Tnú còn nổi bật lên tập thể anh hùng làng Xô Man, trong đó nổi bật hơn cả là nhân vật cụ Mết.
Cụ mết chính là con người thuộc thời đại “Đất nước đứng lên”, cụ đã trải qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để tiếp tục cùng con cháu và thế hệ trẻ vùng lên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng. Cụ vừa là biểu tượng cho quá khứ vẻ vang, rực rỡ, vừa là người giữ và truyền lửa cho thế hệ sau.
Dù đã cao tuổi những cụ Mết vẫn giữ được vẻ quắc thước như xưa, cụ vẫn là cây xù lớn của buôn làng, bàn tay cụ trắc nịch, khỏe khoắn,… Dù chỉ là một vài chi tiết, những tác giả đã cho thấy, dù cụ mất đã già nhưng vẫn có thể lực vô cùng dẻo dai, cường tráng, diện mạo của cụ dường như vượt qua được sức tàn phá mạnh mẽ của thời gian; diện mạo này cũng phần nào chứng tỏ vai trò trụ cột, chống đỡ như cây xà nu lớn của cụ Mết với dân làng Xô Man.
Ẩn đằng sau vẻ đẹp khỏe khoắn, dẻo dai là vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng của cụ. Trước hết cụ là người có tình yêu Đảng, yêu cách mạng sâu sắc, điều này được thể hiện trong cả cuộc đời đấu tranh bền bỉ, kiên cường của cụ Mết, mà chứng tích để lại chính là vết sẹo hằn in trên má.
Cụ Mết đã một lòng theo Đảng, cách mạng để đi từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ trong vai trò trụ cột, chỉ huy, lãnh đạo dân làng Xô Man. Tình yêu với Đảng, cách mạng còn được thể hiện qua những lời nói giản dị mà đầy ý nghĩa: “Đảng còn. Núi nước này còn”. Không khoa trương ồn ào, nhưng bằng chính lối tư duy mộc mạc, ngôn ngữ tự nhiên, đã thể hiện tình yêu Đảng sâu sắc của cụ, đồng thời khơi dậy tình yêu đó trong lòng mỗi người dân làng Xô Man.
Không chỉ vậy cụ còn là người có kinh nghiệm sống, bản lĩnh và từng trải. Chính những điều ấy khiến cho cụ luôn đưa ra những quyết định đứng đắn, sáng suốt trong những thời điểm quan trọng nhất. Cụ cũng là người đã nhận ra: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, cũng chính cụ đã vượt qua được sự nôn nóng của Tnú để quay vào rừng, sau đó cùng thanh niên, trai tráng quay trở lại cứu Tnú. Kinh nghiệm bản lĩnh sống của cụ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của dân làng Xô Man.
Cụ cũng là người luôn tìm cách giữ lửa, truyền lửa và động viên thế hệ mai sau tiếp bước con đường của thế hệ cha anh. Và vai trò quan trọng nhất của cụ Mết cũng là phẩm chất nổi bật nhất chính là việc cụ đưa ra những đúc kết và thay tác giả phát ngôn cho những chân lí của thời đại, cộng đồng.
Từng lời chậm rãi, nhưng dõng dạc, chắc nịch: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, thể hiện sự nhạy bén của cụ trước sự đổi thay của thời đại. Bởi chỉ với bàn tay không Tnú đã không cứu được vợ con, bản thân cũng bị giặc hành hạ tàn bạo; bởi chỉ có bàn tay không nên rất nhiều người dân đã ngã xuống. Cụ đã nhận thức được rằng, thời đại đã thay đổi, quân xâm lược ngày càng sử dụng những vũ khí tối tân với cách đánh tinh vi hơn, bởi vậy chỉ với bàn tay không thì ta chắc chắn sẽ thất bại.
Câu nói của cụ đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải chuyển từ đấu tranh tự phát, sang đấu tranh tự giác, đấu tranh vũ trang với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng với cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên mà nó còn là chân lí của thời đại, kết tinh từ trí tuệ của cộng đồng. Cụ Mết đã thay tác giả phát ngôn chân lí đó. Bằng sự trải nghiệm và kinh nghiệm sống dày dặn, cụ làm cho nhận thức đó trở nên sâu sắc và có giá trị hơn.
Với dân làng Xô Man, cụ Mết chính là linh hồn, chỗ dựa vững chắc cả về sức mạnh lẫn tư tưởng, nhận thức. Cụ vừa là hiện thân của quá khứ hào hùng để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau, vừa là một người dìu dắt, giúp đỡ, thúc đẩy lịch sử đấu tranh của làng Xô Man và nhân dân Tây Nguyên mỗi lúc một hào hùng hơn.
Nếu như trong tác phẩm “Người lái đò” của nhà văn Nguyễn Tuân đã vẽ nên một nhân vật ông lái đò dũng cảm, hiên ngang chiến đấu với sức mạnh của thiên nhiên, thì cụ Mết của tác giả Nguyễn Trung Thành trong tác phẩm Rừng xà nu được nổi bật lên bởi sự vững chắc, rắn rỏi được tạc nên bởi núi rừng Tây Nguyên.
Không được tập trung khai thác như nhân vật Tnú, thế nhưng cụ Mết vẫn gây được những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả. Ngay từ khi xuất hiện, một vị già làng dưới ngòi bút của tác giả được thể hiện qua những chi tiết “một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt”, hay “mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng… ngực căng như một cây xà nu lớn”. Bằng nghệ thuật miêu tả, hình ảnh cụ Mết hiện lên đầy oai hùng, vững chãi, tràn đầy sức mạnh cả về sức khỏe lẫn tinh thần.
Không chỉ thế, núi rừng mạch nguồn Tây Nguyên đã làm nên cho cụ một giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”. Những lời cụ nói như ra lệnh, không bao giờ cụ khen tốt hay giỏi nếu vừa ý thì nói “Được”. Lời nói của cụ đã truyền sức mạnh vào trong những bài giảng về lịch sử oanh liệt của dân làng Xô Man, tiếng nói thiết tha trang nghiêm khi răn dạy con cháu “Nghe rõ chưa các con? Rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy”.
Đặc biệt, sức mạnh ấy đã được bùng nổ khi cụ ra mệnh lệnh chiến đấu khi hay tin Tnú bị giặc đốt cháy mười ngón tay: “Chém! Chém hết”. Giọng nói của cụ là tiếng của cả dân tộc, là tiếng nói của lịch sử, đã dẫn dắt biết bao thế hệ lớn lên, trưởng thành và biết chiến đấu vì đất nước.
Cụ Mết còn là một người có tình yêu sâu sắc, gắn bó máu thịt với quê hương. Cụ dạy Tnú, cùng các thế hệ sau rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn”. Cụ luôn nhắc nhở những người con xa quê rằng: dù đi tới phương trời nào cũng phải luôn ghi nhớ và trân trọng về cội nguồn dân tộc.
Cụ luôn tự hào vì được sinh ra và lớn lên cùng với nắng gió Tây Nguyên, cùng với những rặng xà nu bạt ngàn luôn hiên ngang trước sóng gió. Cụ khẳng định rằng: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”. Với cụ Mết, từng giọt nước ta uống, từng bát cơm ta ăn mà đất nước mang lại đều thật đẹp đẽ và đáng trân trọng biết bao.
Chính vì những tư tưởng ấy, cụ đã dẫn dắt dân làng Xô man cùng những bài giảng giáo dục hết sức vẻ vang về lịch sử dân tộc. Cụ am hiểu về cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc “đánh thằng Mỹ phải đánh lâu dài”. Đặc biệt hơn nữa, cụ là một người có tính kỉ luật rất lớn khi tổ chức, chỉ huy dân làng lánh vào rừng đợi thời cơ đánh giặc: “Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa, ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông”.
Trong suốt thời kỳ chống Mỹ, cụ đã trở thành một chỗ dựa vững chắc cho dân làng Xô man. Cụ động viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi “đánh mỹ phải đánh dài”. Tuy trong lòng cụ sục sôi vì nỗi căm thù quân giặc, nhưng cụ vẫn giữ bình tĩnh, sáng suốt để tìm ra con đường đúng đắn nhất để lãnh đạo dân làng chiến đấu. Tinh thần của cụ luôn hừng hực, khí thế tựa như những đại đại thụ Xà nu tại chốn rừng Tây Nguyên.
Với vẻ ngoài hào kiệt, uy nghi là thế, cụ lại mang trong mình một trái tim dạt dào tình yêu thương với dân làng. Khi Tnú được trở về chỉ với những đốt tay còn sót lại sau khi bị giặc đốt, cụ kìm nén những cảm xúc đau buồn để khích lệ anh “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”.
Khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú, cụ cũng không kìm nổi sự căm phẫn tiếc thương, cụ thương cho những người con, người cháu vô tội của cụ đã bị giết bởi những tên giặc mạn rợ, cụ thương cho cuộc đời của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”. Trải qua biết bao sự mất mát, chia ly bởi bom đạn, cụ vẫn phải rơi những giọt nước mắt bởi dân làng, người thân của cụ. Chính cử chỉ vụng về ấy đã bộc lộc trái tim nhân hậu, yêu thương đồng bào của cụ. Cụ đã trở thành ngọn lửa sưởi ấm trái tim, xoa dịu nỗi đau của biết bao con người. Cụ Mết chính là linh hồn của cả một dân tộc Việt Nam và dân làng Xô Man nói riêng.
Hình ảnh cụ Mết tuy ít xuất hiện trong bài, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành, nhân vật cụ Mết với những phẩm chất ưu tú hơn người, đã mang trọn những tinh thần kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên. Trong lịch sử của chúng ta, không có ít người như cụ Mết, thế nhưng hình ảnh của cụ già làng sánh vai cùng cây xà nu đại thụ trong Rừng xà nu sẽ sống mãi cùng mọi thế hệ.
10 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm “Rô
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 10
“Rô-bin-xơn Cru-xô” là tiểu thuyết đầu tay và cũng là nổi tiếng nhất của Đi-phô. Tác phẩm ca ngợi lao động nghị lực phi thường và sức mạnh của những con người trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên. “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” là một đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm. Câu chuyện cho người đọc hình dung cuộc sống khó khăn, gian khổ của nhân vật Rô-bin-xơn, qua đó khắc họa tinh thần lạc quan bất chấp gian khổ của Rô-bin-xơn.
Tác phẩm được tác giả viết khi gần 60 tuổi, được gợi cảm hứng từ câu chuyện có thật về một thủy thủ người anh tên là Alếch-xăng-đê Xen-kiếc đã bị bỏ lại và sống ở đó một mình bốn năm bốn tháng. Khi thuyền trưởng Rôgiơ tìm thấy thì anh ta gần như đã trở nên hoang dã. Từ câu chuyện về người thủy thủ này, Đi-phô đã sáng tạo và nâng nhân vật Rô-bin-xơn của mình lên một tầm vóc mới: Con người đấu tranh, chinh phục tự nhiên, con người chiến thắng hoàn cảnh. Đoạn trích kể về khoảng thời gian từ năm thứ chín đến năm thứ mười lăm của Rô-bin-xơn trên hòn đảo hoang, đã phải vượt qua bao nhiêu thử thách, khos khăn để duy trì sự tồn tại.
Đoạn trích khắc được bức chân dung tinh thần tự họa, cuộc sống gian khổ và tinh thần lạc quan của Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang, từ đó cho thấy ý chí, nghị lực của nhân vật trước khó khăn. Trước hết người đọc thấy được bức chân dung tinh thần tự họa của Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang. Nhân vật tự hình dung diện mạo chính mình để kể lại cho người đọc bằng giọng điệu hài hước, đằng sau giọng điệu ấy là một quãng thời gian đằng đẵng tách biệt với thế giới ngoài kia, phải một mình đối mặt với bao hiểm nguy, với thời tiết mưa nắng thất thường của vùng xích đạo.
Đầu tiên, hãy lắng nghe chàng kể về trang phục của mình: “Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da một con dê, với mảnh da đổ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Áo bằng tấm da dê và áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi. Quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê, da của một con dê đực già, lông dê thòng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chẳng khác nào quần dài. Ủng cũng bằng da dê, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên.
Bộ trang phục Rô-bin-xơn thật xấu xí, kỳ quặc vì phải sống một mình nơi hoang đảo. Thời tiết khắc nghiệt nắng lắm, mưa nhiều thất thường, Rô-bin-xơn phải tự thích nghi và tự tạo trang phục cho mình từ những vật dụng sẵn có. Trang phục được miêu tả từ đầu xuống chân: mũ, áo, quần và tự tạo đôi ủng, tất cả đều bằng da dê. Rô-bin-xơn tự ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về, thô cách trong bộ dạng từ đầu đến chân, hài lòng với sự hào phóng của đảo hoang đã cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở chỗ tất cả đều được tạo nên từ bàn tay lao động là công sức và sự khéo léo của chính chàng để chế tác là những sản phẩm độc nhất vô nhị này.
Vị lãnh chúa và cũng là thần dân duy nhất của đảo hoàng này trong suốt mười lăm năm còn trang bị cho mình những vật dụng cần thiết để đảm bảo cuộc sống nơi hoang dã. Vẫn bằng giọng điệu hóm hỉnh, Rô-bin-xơn thuật lại cho chúng ta hình ảnh một chàng trai chỉnh tề như một chiến binh: “Quanh nguời tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa, hai bên có hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con.
Quàng qua vai tôi là một đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi”. Như vậy, ta hình dung ra một con người suốt ngày bận rộn với công việc chặt cây, cưa gỗ, dựng lều để lập nên cơ ngơi cho riêng mình. Qua đó ta càng thấy rõ nghị lực phi thường của Rô-bin-xơn khi phải chịu hoàn cảnh khắc nghiệt như thế.
Khép lại bức chân dung tự họa bản thân,Rô-bin-xơn mới tự họa diện mạo của mình bằng mấy dòng ngắn ngủi nhưng khiến chúng ta phải nở nụ cười sảng khoái. Rô-bin-xơn có một nước da đen, tuy rằng không đến nỗi đen cháy. Bộ râu đã có lúc để dài đến hơn một gang tay nhưng vì có cả kéo và dao cạo đủ dùng nên cắt tỉa khá ngắn gọn, hàng ria ở môi trên được xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng theo kiểu Hồi giáo. Hình dáng ấy ngay Rô-bin-xơn cũng phải tự nghĩ: “Giá có người nào trông thấy tôi, nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười”.
Đằng sau bức chân dung tự họa của Rô-bin-xơn, chúng ta thấy được bức chân dung tinh thần của Rô-bin-xơn: một con người dám sống và biết cách sống, sống mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chiếc mũ “với mảnh da rủ xuống sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chặn không cho mưa hắt vào cổ” cho ta thấy tài trí thông minh và nghị lực phi thường của con người trước hoàn cảnh khắc nghiệt. “Bộ quần áo da dê, đôi ủng, chiếc thắt lưng rộng bản” – những vật dụng này đều do đôi bàn tay khéo léo của anh tạo ra.
Sự thú vị trong trang phục của Rô-bin-xơn là đều dùng chất liệu da dê – sản phẩm của công việc chăn nuôi trên hoang đảo. Những vật dụng như cưa nhỏ, rìu con là những công cụ lao động tiện ích trong việc chặt cây, dựng nhà, bước đầu khai phá nơi hoang đảo thành nơi định cư. Như vậy, qua trang phục và vật dụng Rô-bin-xơn mang trên người, chúng ta cảm nhận được sự khó khăn, gian khổ và bản lĩnh kiên cường của con người trước hoàn cảnh khắc nghiệt, hơn tất cả đó là tinh thần lạc quan của Rô-bin-xơn.
Dù một mình đương đầu với cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nơi hoang đảo nhưng không làm cho Rô-bin-xơn nhụt chí. Anh tự mình khắc phục khó khăn với những đồ đạc vớt được trên tàu ,sau đó là sự thay thế dần trang phục: quần áo, ủng, dây thắt lưng đều bằng da dê. Trong hoàn cảnh chỉ có một mình nơi hoang đảo anh vẫn vươn lên mà không hề than phiền về những cực nhọc gặp phải. Đó là biểu hiện của một con người rất quý trọng cuộc sống, giàu ý chí và nghị lực. Bộ quần áo mục nát được thay bằng bộ quần áo túm lại bằng da dê, cái ủng cũng được tự tạo phù hợp với hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống trên hoang đảo một mình nhưng Rô-bin-xơn vẫn chăm sóc bộ râu của mình một cách kỹ lưỡng.
Dù trong hoàn cảnh nào thì con người đều phải chăm sóc bản thân mình một cách hoàn hảo nhất. Tinh thần lạc quan của Rô-bin-xơn là minh chứng rõ nét cho sức mạnh và trí tuệ của con người, sức mạnh cải tạo hoàn cảnh và khuất phục thiên nhiên, khẳng định trong hoàn cảnh nào thì con người cũng phải tin yêu cuộc sống và có niềm tin vào sức mạnh bản thân mỗi con người.
Truyện kể ở ngôi thứ nhất, Rô-bin-xơn xưng “tôi” tự kể chuyện mình tạo sự dễ dàng hòa nhập vào nhân vật và phản ánh được tính chân thật của câu chuyện cũng như bức chân dung tự họa. Giọng kể trầm tĩnh, vui vui pha chút hóm hỉnh, tự giễu cợt làm nổi bật sự lao động sáng tạo, trí thông minh khéo léo, tinh thần lạc quan, nghị lực phi thường, ý chí sống mãnh liệt. Ngôn ngữ kể chuyện hóm hỉnh, nghệ thuật miêu tả và dẫn truyện của nhà văn đem đến suy ngẫm về vẻ đẹp con người tự vượt lên khó khăn, khắc nghiệt của thiên nhiên. Truyện đã khắc họa chân dung Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang sống động từng chi tiết với nụ cười thường trực có sức hấp dẫn kỳ lạ. Rô-bin-xơn là hiện thân của con người lý tưởng không biết lùi bước trước bất kỳ thử thách, khắc nghiệt nào. Bản lĩnh phi thường và tình yêu sự sống của chàng là bài học cho bất cứ ai muốn hoàn thiện giá trị tốt đẹp của con người.
Qua bức chân dung tự họa và giọng kể của Rô-bin-xơn, ta hình dung được cuộc sống vô cùng khó khăn và cả tinh thần lạc quan của nhân vật, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ khi chỉ có một mình nơi đảo hoang vùng xích đạo. Đã có người đã từng ca ngợi đoạn trích “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” là bài ca lao động sáng tạo, hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm, cái vĩ đại và đáng quý nhất ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính. Ta hiểu vì sao “Rô-bin-xơn Cru-xô” của Đi-phô đã cuốn hút sự say mê của biết bao nhiêu thế hệ trên khắp thế giới.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 9Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 10
Rô bin xơn ngoài đảo hoang là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Đe ni ơn đê- phô. Tác phẩm là câu chuyện về người thủy thủ thích phiêu lưu là Rô bin xơn. Cuộc đời anh là những chuyến đi dài dù nhiều lần gặp chuyện nhưng anh không hề nhụt chí.
Đặc biệt đoạn trích rô bin xơn ngoài đảo hoang là đoạn thể hiện rõ nhất về con người Rô bin xơn khi bị lạc ở đảo hoang, những người thủy thủ trên chuyến tàu đều đã chết chỉ còn mình anh sống sót và đối mặt với những khó khăn nơi đảo hoang. Qua đoạn trích ta có thể thấy được diện mạo của Rô-bin-xơn sau bao nhiêu năm bị lạc ngoài đảo hoang.
Chính nhân vật đã vẽ lên bức chân dung của mình. Anh tự nghĩ rằng nếu gặp lại đồng bào sẽ khiến cho người ta hoảng sợ hoặc cười sằng sặc bởi bộ dạng của anh lúc này. Tất cả đều được tạo bằng da dê trông khôi hài và kì cục. Ông thay đổi từ một chàng trai da trắng lịch lãm thành một gã thổ dân da màu. Với giọng điệu dí dỏm khôi hài, nhân vật như tự cười chính bộ dạng của mình.
Thứ hai, nhân vật hiện lên với trang phục cũng rất đặc biệt. Chiếc mũ của vị chúa đảo được làm bằng da dê, to, cao để che nắng che mưa. Tiếp đến là chiếc áo cũng được làm da dê vạt dài đến lưng bắp đùi. Đến chiếc quần loe đến gối cũng được làm bằng da dê. Một đôi giày ủng mang hình dáng kì cục. Trang phục của nhân vật được miêu tả tỉ mỉ từ hình dáng cho đến chất liệu với một giọng điêu khôi hài khiến cho trang phục của Rô bin xơn hiện lên càng kì cục và ngộ nghĩnh biết bao.
Trang bị của rô bin xơn là chiếc thắt lưng bằng da dê hai bên lủng lẳng những cưa và rìu. Trên vai của nhân vật lủng lẳng hai túi cũng bằng da dê và khoác súng. Sau lưng anh đeo một chiếc gùi. Một chiếc dù lớn bằng da dê được che trên đầu vô cùng xấu xí. Cách miêu tả cho thấy được bộ dạng Rô bin xơn với những đồ vật cồng kềnh, kì quái.
Cuối cùng là diện mạo của nhân vật, diện mạo của Rô bin xơn hiện lên với nước da không quá đen và hàng ria kiểu theo kiểu hồi giáo dài đến mức kì quái. Rô bin xơn đã dị hình lại còn dị tướng. Nhân vât không chỉ di hình mà còn dị tướng. Tuy nhiên đằng sau bức chân dung dị hợm ấy là cả một nghị lực sống, một tinh thần lạc quan, vượt lên trên mọi khó khăn, lao động sáng tạo và có sức mạnh chiến thắng thiên nhiên.
Tóm lại qua đoạn trích ngoài sự khôi hài bởi diện mạo quái lạ đến kì cục dị tướng của vị chúa đảo Rô bin xơn ta còn thấy được sức sống mạnh mẽ của nhân vật. Con người với ý chí của mình sẽ chiến thắng được thiên nhiên và vượt qua tất cả mọi khó khăn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 9
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 8Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 9
Em mê nhân vật Rô-bin-xơn từ ngày đọc truyện cùng tên của nhà văn Đ.Đi-phô. Được học đoạn trích “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” em càng thấy mê hơn, thích nhân vật này. Đó là một tấm gương sống lạc quan, sáng tạo, say mê làm việc với nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Trong đoạn trích, Rô-bin-xơn sống đã trên mười năm ngoài hoang đảo. Điều làm em kinh ngạc là hơn mười năm không gặp đồng loại, không trò chuyện cùng ai ngoài những câu ngắn nói với con chó mà Rô-bin-xơn vẫn sống bình thường, cân bằng. Chỉ riêng việc chiến thắng nỗi cô độc, sự cô đơn đã là một kì tích của Rô-bin-xơn. Chắc chắn anh phải có bí quyết sống mạnh mẽ, một bộ thần kinh thép mới có thể đạt tới kì tích ấy. Liều thuốc thần dược, bí quyết sống của anh thật đơn giản: làm việc và làm việc. Trong đoạn trích, anh đã kể suốt thời gian đó, tôi không ngồi rỗi, bằng lòng với những thứ mình đã có. Tôi vẫn làm việc không mệt mỏi.
Tôi say sưa với công việc, không còn nghĩ vẩn vơ. Như vậy, công việc không chỉ mang lại cho Rô-bin-xơn những sản phẩm bảo đảm cuộc sống. Nó còn tạo nên niềm vui, sự hứng khởi, nuôi dưỡng niềm hi vọng vào ngày gặp lại đồng loại, trở về với bạn bè, gia đình, xã hội. Rô-bin-xơn ngày càng lành nghề trong nhiều công việc thủ công. Sự kiên trì, khéo léo, trí thông minh, tài sáng tạo của anh làmem luôn luôn đi từ sự ngạc nhiên này đến sự ngạc nhiên khác, cuối cùng chỉ còn biết bái phục.
Anh kể, trước kia không biết nặn nhưng cuộc sống buộc anh phải sáng tạo ra các thứ đồ dùng để chứa thức ăn, thức uống, lương thực. Anh tập nặn và cuối cùng nặn rất khéo. Ngoài bát đĩa, bình vò thường dùng, anh còn nặn một cái tẩu hút thuốc. Phải nói đó là một công trình sáng tạo đặc biệt dù nó còn thua xa thứ tẩu vẫn bán ở phố. Anh thấy tự hào tôi rất thích thú với cái tẩu hút thuốc, tôi đã có thuốc lá nay lại có cả tẩu để hút. Cũng trong hoàn cảnh đó, anh là người thợ đan giỏi. Bằng một thứ miên liễu, anh đã đan được thúng, được bồ và nhiều đồ dùng khác.
Anh còn trở thành người thuần dưỡng dê và kiên trì nhân số lượng dê từ hai con lên đến trên bốn mươi ba con dê. Anh tự mày mò tập vắt sữa, làm phó mát… Bằng bàn tay khéo léo và khối óc thông minh, Rô-bin-xơn đã làm cuộc sống từ chỗ thiếu thốn đến chỗ no đủ. Anh đã sống và biết làm cho cuộc sống đó ngày càng đàng hoàng, hạnh phúc. Anh đã có đủ lương thực, thực phẩm, hoa quả dùng cho bữa ăn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn. Kết quả việc làm Rô-bin-xơn làm em liên tưởng đến kì tích của một nhân vật trong truyện cổ Việt Nam: anh chàng Mai An Tiêm. Bị đày ra đảo hoang, An Tiêm với hai bàn tay sáng tạo và cần cù của mình cũng tạo lập nên cuộc sống no đủ, và còn phát hiện ra giống dưa quý. Đó là hai con người, ở hai chân trời khác nhau, nhưng đều là hai thần tượng của em, từng cổ vũ em trong những lúc gặp khó khăn.
Rô-bin-xơn còn là một người có tính hài hước. Em đã thích thú, thậm chí có lúc cười thành tiếng khi đọc đoạn anh miêu tả bộ quần áo kì dị của ông “chúa đảo”, bộ quần áo đến con chó cũng kinh ngạc, nghi nghi hoặc hoặc. Đó là thành quả của tài năng và sức lao động kiên trì của anh trong bao nhiêu lâu. Vì thế, em vừa thích thú song lại vừa khâm phục anh khi ngẫm nghĩ về bộ quần áo ấy. Chi tiết vui nhộn nhất có lẽ là bộ ria kiểu Thổ Nhĩ Kì của anh. Nó vừa dài, vừa rậm, tô thêm nét cổ quái cho khuôn mặt anh.
Rô-bin-xơn là một nhân vật văn học song em cứ nghĩ như mình đã gặp anh đâu đó trong cuộc sống. Bởi những đức tính của anh, lạc quan, thông minh, sáng tạo, cần cù, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để tạo lập nên cuộc sống đàng hoàng, có ích, là đức tính cần thiết cho mọi người ngay cả khi họ sống trên đảo hoang và giữa đồng loại. Em càng yêu quý nhân vật này.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 7Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 8
Con người, mi là ai? Câu hỏi ấy giúp cho nhân loại tự ngắm mình trong những trường hợp biến dạng đến dường như không phải là con người. Rô-bin-xơn rơi vào một trong những nghịch cảnh không bình thường như thế. Hơn mười năm ròng rã sống trên hoang đảo, bị cắt đứt mọi liên lạc với con người, anh có còn là chàng thanh niên hai mươi bảy tuổi quê ở miền Y-oóc-sai nữa hay không? Thử thách vượt qua sức tưởng tượng này là một phép thử có hồi âm, một thông điệp không bi quan mà ngược lại.
Bản năng sống không cho phép con người bất lực khoanh tay. Dù thế nào, bằng cách nào cũng phải sống. Quyết tâm ấy, ý chí ấy có khả năng diệu kì biến không thành có. Nếu nghị lực là phẩm chất số một ở con người thì tại nơi đảo hoang này, ở Rô-bin-xơn nó luôn luôn toả sáng. Để định cư nơi đầu sóng ngọn gió, nơi góc bể chân trời xa lạ, những điều đầu tiên không thể không nghĩ đến: căn lều che nắng che mưa, cái ăn cái mặc hằng ngày. Căn lều chắc được dựng lên từ cây cối trong rừng bằng chiếc cưa nhỏ và chiếc rìu con mà lúc nào Rô-bin-xơn cũng đeo lủng lẳng bên người. Còn cái ăn chắc nhờ vào săn bắn và hái lượm, hình thái tự cung tự cấp sơ khai của người nguyên thuỷ cách đây hằng mấy chục ngàn năm nhờ khẩu súng trên vai cùng hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém.
Nhưng, những điều đó không phải “kì cục”. Cái dị hình, dị tướng làm cho người ta “hoảng sợ”, hoặc “phá lên cười sằng sặc” là ở hình ảnh của một thứ “người rừng” hay con gấu cô đơn Bắc Cực. Cách ăn mặc của Rô-bin-xơn quả thật là như thế. Thông thường quần áo được may bằng vải vóc hay len dạ tuỳ thuộc vào thời tiết ấm lạnh mỗi mùa, nhưng căn cứ vào cách ăn mặc của anh, ta cứ ngỡ thời gian ở đây không luân chuyển. Trái đất hình như đã ngừng quay để chỉ còn có một mùa đông lạnh giá quanh năm. Thôi thì mũ, giày, quần áo từ đầu đến chân chỉ có một thứ vật liệu đặc sản: da dê. Sự dung hoà giữa cái có ích và cái đẹp không còn. Cái mũ chỉ là một thứ để đội đầu với hình thù vượt khỏi khái niệm quy ước “to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì”, dính liền với nó rất lôi thôi là một mảnh da rủ xuống phía sau “vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”.
Cả hai chức năng cần đến hai loại trang phục, nhưng Rô-bin-xơn chỉ cần đến một chiếc mũ đa năng. Cố tình làm chiếc mũ như thế, anh có một dụng ý riêng “ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”. Áo và quần cũng thế, nghĩa là không cần kiểu mốt. Chúng lại không ăn khớp với nhau. Hình như cái áo thì quá dài (khoảng lưng chừng hai bắp đùi) còn quần lại quá ngắn, quần là dạng “quần loe” nhưng chỉ đến đầu gối mà thôi. Lại nữa, vì quần được may bằng da một con dê đực già trông nó khó mà phân biệt được quần dài hay quần ngắn vì “lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân”.
Đôi giày dưới chân thì cũng như chiếc mũ trên đầu, không biết gọi là gì cho đúng vì giày đi không có tất, gọi nó là đôi ủng thì có lẽ đúng hơn vì dây của cái gọi là giày ấy không xỏ lỗ nơi mu bàn chân mà lên tới bắp chân. Sự luộm thuộm không chỉ thế. Nó còn là đặc điểm trong cách trang bị trên người, lỉnh kỉnh như một cái nhà kho di động. Không đeo kiếm và dao găm như những nhà quý tộc thời Đôn Ki-hô-tê, về góc độ này mà quan sát, người ta có thể nhầm anh với người thợ sơn tràng với “lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”. Nhưng có lẽ anh là thợ săn với đầy đủ súng khoác trên vai và hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Cũng có thể nghĩ anh là một thổ dân da đỏ vào rừng trèo cây, đào củ với chiếc gùi đeo ở sau lưng. Biết vượt lên mọi thử thách, khó khăn, Rô-bin-xơn đã tồn tại, dù hình thức của sự tồn tại hoang dã, thô sơ gần như một con người ở vào thời tiển sử.
Thậm chí cái cách “xén tỉa” thật cẩn thận, kĩ càng như một người khó tính, vì bộ ria mà anh muốn có là “một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê”. Với gương mặt đầy hãnh diện ấy, Rô-bin-xơn có thể tự hào cũng như nước da sạm màu nắng gió của vùng đất “khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo” vẫn trông được, nghĩa là “nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ”. Đó là niểm vui duy nhất lúc này mà Rô-bin-xơn tự cảm nhận được. Ý nghĩ ấy khoẻ khoắn, trong, trẻo biết bao. Đó mới là chân dung con người đích thực. 3. Về nghệ thuật, đây là một bức chân dung tự hoạ, nó đảm bảo tính chân thực, khách quan.
Đọc một đoạn văn không dài, ta vẫn có thể hình dung được một con người cụ thể đến từng chi tiết. Bức vẽ chân dung ấy gắn với hoàn cảnh sống đầy rẫy gian truân khi một mình sống trên hoang đảo. Nhưng, một mặt khác, do sự đồng cảm và tài năng của người kể chuyên, bức tranh chân dung ấy rất sinh động, như có linh hồn. Ấn tượng mà chúng ta có thể cảm nhận được là nhờ ở giọng văn, một giọng văn không đơn điệu, một chiều mà vô cùng đa dạng. Chẳng hạn như miếu tả cách ăn mặc và trang bị của Rô-bin-xơn có ý vị hài hước, cường điệu, bông phèng, nhưng đoạn văn miêu tả diện mạo, gương mặt lại rất nghiêm trang, trân trọng.
Chính sự đa dạng về giọng điệu của trích đoạn trên góp phần tạo nên một tính cách nhân vật không hời hợt mà có chiều sâu, vừa sôi nổi vừa trầm tư, vừa có những nét trần tục vừa có những nét thiêng liêng như một vị thánh. Những hàm nghĩa đa tầng ấy, trong nhiều trường hợp được thể hiện bằng cách so sánh. Khi thì nhà văn so sánh bộ ria theo kiểu Hồi giáo của mình trước cái nhìn của người Ma-rốc và người Anh (người Ma-rốc không để ria theo kiểu người Thổ, còn bộ ria ấy sẽ làm cho mọi người khiếp sợ nếu ở nước Anh). Cũng là cái cười, nhưng có nhiều cung bậc.
Người nhìn tranh (bức chân dung tự hoạ) rất có thể vì ngạc nhiên hay hoảng sợ mà “phá lên cười sằng sặc”, còn người được vẽ trong tranh Rô-bin-xơn, thì chỉ “mỉm cười” khi đứng lặng mà ngắm nghía bản thân. Một đoạn văn ngắn nhưng thật là đặc sắc.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 6Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 7
Nhắc đến Đi-phô là người ta nhắc đến một đại văn hào của đất nước Anh. Mọi độc giả khắp nơi biết đến ông như một hiện tượng trong văn học bởi sự xuất hiện của một kiệt tác gắn liền với tên tuổi của ông. Đó là “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang”. Đây là một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn người đọc với rất nhiều những suy nghĩ và cảm xúc.
Rô-bin-xơn là một chàng trai rất ưa thích hành động, ưa thích sự phiêu lưu và hứng thú với những miền đất lạ. Chính bản tính thích ngao du ấy khiến anh ta bất chấp mọi nguy hiểm và khó khăn để đến với những điều mới mẻ. Cuộc hành trình đầu tiên của anh là ở Hơn, theo bạn đi đến Luân Đôn qua đường biển nhưng nó không may mắn và con tàu không may bị chìm ở Y-ac-mao. Tuy vậy, Rô-bin-xơn không hề buông bỏ, anh vẫn quyết tâm có một chuyến hành trình tiếp theo khi quen với một thuyền trưởng và rời bến ở Ghi-nê. Trong hành trình đó, lần đầu tiên anh thuận lợi, may mắn. Tuy nhiên, đến lần thứ hai anh lại gặp cướp biển, bị chúng bắt làm nô lệ tại Xa-lê. Hành trình của anh vẫn chưa kết thúc. Hai năm sau, Rô-bin-xơn trốn sang Bra-xin làm trang trại. Chuyến đi mang tính bước ngoặt lớn của anh chính là khi có một chuyến buôn bán lớn, không may tàu gặp nạn, bị mất phương hướng. Rô-bin-xơn may mắn sống sót và trôi vào một đảo hoang.
Rô-bin-xơn là một người có ý chí và nghị lực phi thường. Dù hoàn cảnh khó khăn nhưng anh không hề tỏ ra bất lực hay thất vọng. Dù cô đơn nhưng anh luôn cố gắng vươn lên số phận, say sưa làm việc. Chính tinh thần lạc quan và bản tính chăm chỉ, cần cù vốn có đã khiến cho Rô-bin-xơn hoàn thành tốt mọi công việc. Anh thành thạo và lành nghề trong cả nông nghiệp và thủ công…Sự đa tài của anh còn được thể hiện trong sự sáng tạo không ngừng. Từ việc nuôi dê đến việc vắt sữa dê và việc “thử làm bơ và pho-mát”. Chính điều này đã khiến Rô-bin-xơn vô cùng hứng thú: “Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát, tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn, không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.
Bên cạnh đó, Rô-bin-xơn còn là một chàng trai vô cùng yêu đời. Phải thực sự là một người có niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống mới có thể tồn tại và trụ vững ở một nơi hoang sơ như vậy. Một mình sống giữa đảo hoang, anh vẫn muốn sống một cuộc đời đáng sống, đáng nhớ và đầy ý nghĩa. Anh muốn đem lại những giá trị tốt đẹp cho cuộc đời. Điều này được thể hiện ngay ở hình thức, cách ăn mặc bề ngoài của anh. Không có ai xung quanh nhưng anh vẫn trưng diện theo ý thích của mình. Anh ăn mặc trông rất kì lạ, buồn cười. Từ chiếc quần rộng thùng thình cho đến cái áo da kì lạ, cãi mũ da dê “không ra cái hình thù gì”, cái thắt lưng bằng da lông.
Rô-bin-xơn kể về việc trang bị những thiết bị bên cạnh mình: “Quanh người là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa hai bên cổ hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi”.
Diện mạo của anh cũng thể hiện rõ tính cách của một chàng trai du mục, thích ngao du, tự tin và đầy sức sống. Tác giả mô tả những chi tiết trên gương mặt Rô-bin-xơnvô cùng ấn tượng “Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho nó mọc dài đến hơn một gang tay. Nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo đủ dùng nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê, vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nối cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mủ của tôi nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Giọng kể chuyện mang tính hài hước, vui vẻ thể hiện sự lạc quan cũng như đời sống tinh thần vui vẻ của Rô-bin-xơn.
Một đoạn trích tưởng chừng như chỉ kể về một con người bình thường nhưng bản chất lại rất đỗi phi thường. Đoạn trích cũng đem lại cho mỗi chúng ta nhiều điều gợi mở, một bài học mà mỗi con người chúng ta đều tự ngẫm ra cho bản thân mình là tư tưởng, tinh thần sống lạc quan. Thử hỏi đặt mình trong hoàn cảnh cô đơn, bất hạnh như Rô-bin-xơn, mỗi chúng ta ai làm được những điều như vậy? Chính là tinh thần vươn lên, là sự lạc quan trong suy nghĩ dẫn đến những hành động tích cực.
Rô-bin-xơn đang làm đẹp cho bản thân, cho gia đình và cho mọi người trong xã hội. Đây chính là lối sống tích cực mà bản thân mỗi chúng ta cần học hỏi, cần cố gắng thực hiện để cuộc đời tươi đẹp, sống có ý nghĩa hơn. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả muốn truyền tải thông qua đoạn trích này. Điều này cũng minh chứng cho việc không phải ngẫu nhiên mà đoạn trích được coi như một bài ca ca ngợi vẻ đẹp lao động của con người trong cuộc sống.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 6
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 5Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 6
Rô-bin-xơn Cru-sô là cuốn tiểu thuyết từng làm say mê bao thế hệ trẻ em Việt Nam. Dựa trên một câu chuyện có thật, Đ. Đi-phô đã sáng tạo hình tượng chàng thủy thủ Rô-bin-xơn lạc giữa đảo hoang hơn hai mươi tám năm đã cho thấy con người có thể vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chiến thắng thiên nhiên và tự chiến thắng nỗi cô đơn của chính mình để trở về với đồng loại. Cuộc sống ấy hiện lên qua lời kể của chính nhân vật, khiến chúng ta thích thú và bị cuốn hút theo giọng kể hài hước, ngôn ngữ đặc tả chi tiết sống động hóm hỉnh, toát lên vẻ đẹp tinh thần lạc quan của con người. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoangsẽ cho thấy rõ vẻ đẹp ấy.
Nhân vật tự hình dung diện mạo chính mình để thuật lại cho người đọc bằng giọng điệu hài hước cố hữu nổi tiếng của người Anh. Tính chất của lời tự thuật khiến cho trình tự miêu tả cũng hết sức độc đáo, khác với lối tả chân dung thông thường. Đằng sau giọng kể ấy là cả một quãng thời gian đằng đẵng tách biệt với đồng loại, chàng phải một mình đối mặt với bao hiểm nguy rình rập, với thời tiết mưa nắng thất thường của vùng xích đạo.
Cần phải nói ngay rằng, dù phải một mình sống giữa đảo hoang, Rô-bin-xơn không khi nào nguôi những tình cảm hướng về nước Anh, vùng Y-óoc-sai quê hương của chàng. Bởi thế, lời kể của một người đã gần ba mươi năm sống tách biệt đồng loại vẫn in đậm dấu ấn suy tưởng hướng về xứ sở. Nếu không có tình cảm mãnh liệt ấy, có lẽ chàng đã chết trong mòn mỏi và tuyệt vọng rồi ! Sống để trở về, đó là cơ sở hành động để chàng phải chuẩn bị chu đáo, chống chọi với mọi mối đe doạ từ nhiều phía, tổ chức cuộc sống cho mình. Bản thân câu chuyện được kể lại đã có thể xem như khúc khải hoàn sau gần ba mươi năm của một con người dũng cảm đã tự tạo được niềm tin ở chính mình.
Trước hết, hãy nghe chàng tả về trang phục: “Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên được nụ cười mỉm từ phía bạn đọc và có lẽ chính người tạo ra nó cũng phải thú vị trước hiệu quả, công dụng của chiếc mũ này. Không chỉ có chiếc mũ, mà cả áo, quần, “giày” cũng được làm bằng da dê – trang phục ấy không còn bất cứ dấu vết nào của đời sống văn minh. Rô-bin-xơn tự ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về thô kệch trong bộ dạng từ đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo hoang đã hào phóng cho chàng những tấm da dê quý giá.
Nhưng có lẽ sự hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở chỗ tất cả đều được tạo nên từ bàn tay lao động, là công sức và sự khéo léo của chính chàng để chế tác ra những sản phẩm độc nhất vô nhị này. Cuộc sống gần ba mươi năm buồn tẻ không lấy mất được của chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên…”.
Có lẽ đến tận bây giờ, các nhà thiết kế thời trang giàu óc tưởng tượng nhất cũng không thể chế tác được một bộ đồng phục… dê độc đáo đến thế! Nhưng với Rô-bin-xơn, giá trị sử dụng của món thời trang này mới là mục đích của chàng, bởi nhờ thế, chàng tồn tại với tư cách một con người đàng hoàng, không phải một con người bị lôi kéo trở về với bản năng nguyên thủy ăn lông ở lỗ. Vị lãnh chúa và cũng là thần dân duy nhất của đảo hoang này trong suốt mười lăm năm còn trang bị cho mình những vật dụng cần thiết để bảo đảm cuộc sống nơi hoang dã.
Vẫn bằng giọng điệu hóm hỉnh, Rô-bin-xơn thuật lại cho chúng ta hình ảnh một anh chàng nai nịt chỉnh tề như một chiến binh nhưng “không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”. Thêm vào đó là hai cái túi cũng bằng da dê, “một túi đựng thuốc súng, túi kia đựng đạn ghém”. Với những vật dụng lỉnh kỉnh như vậy, ta hình dung ra một con người suốt ngày bận rộn với công việc chặt cây, cưa gỗ dựng lều, rào giậu, dựng lên “cơ ngơi” cho riêng mình.
Qua hình ảnh Rô-bin-xơn “đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê”, ta như nhìn thấy bóng dáng con người thời tiền sử sống bằng nghề hái lượm, săn bắt. Nhưng điểm khác biệt duy nhất là khẩu súng – vật bất li thân của chàng. Vũ khí của xã hội văn minh phần nào cũng giúp chàng tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm để đối chọi với thiên nhiên, chủ động đối phó với mọi bất trắc một cách tự tin hơn. Rô-bin-xơn không hề ỷ lại vào đó để sống sót mà điều quan trọng là sống một cách vững vàng trong điều kiện thiếu thốn.
Đàng sau nụ cười thấp thoáng qua lời kể, ta có thể hình dung ra quyết tâm và ý chí của một con người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo toan, tính toán từ “sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh, khẳng định bản năng sinh tồn mạnh mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc mũ da dê kì quái che đến tận cổ vì “chẳng có gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”. Một trận cảm lạnh bất ngờ có thể làm chàng gục ngã, ý thức được điều đó nên chàng phòng ngừa tối đa cho sức khoẻ chính mình.
Những công việc bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cũng là cách để chàng vượt qua cảm giác buồn chán thường dễ xảy đến với con người cô đơn. Nếu như chỉ ngồi khắc từng vạch lên thân cây đếm thời gian, hẳn chàng đã không đủ sức mạnh để tồn tại suốt một thời gian dài đằng đẵng như vậy. Ý chí của Rô-bin-xơn mới mạnh mẽ làm sao! Chàng không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hiện rõ tư thế người làm chủ, bắt thiên nhiên phải khuất phục. Không những thế, qua những chi tiết chàng tự mô tả bản thân, ta hiểu Rô-bin-xơn đã tự chiến thắng chính mình. Đây mới quả thực là chiến thắng vinh quang đáng tự hào nhất, vì là thử thách khó vượt nhất!
Khép lại bức chân dung tự hoạ bản thân, Rô-bin-xơn mới tự hoạ diện mạo của mình bằng mấy dòng ngắn ngủi nhưng khiến ta phải nở nụ cười sảng khoái. Không hề có một tấm gương soi, nên việc chăm chút dung nhan chỉ giới hạn ở trong tầm mắt của Rô-bin-xơn : bộ ria mép kiểu cách được chăm sóc cẩn thận. Hoá ra trong hoàn cảnh ấy, một chàng thợ may tồi vẫn có thể thành một anh thợ cạo cầu kì tạo dáng cho bộ ria : “tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê”.
Nhu cầu làm đẹp ấy hiệu quả ra sao? Hãy nghe Rô-bin-xơn tự thưởng thức : “tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ của tôi ; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Bộ ria ấy chẳng biết có gợi lên vẻ oai vệ trịnh trọng như một Xun-tan (lãnh chúa) người Thổ hay không, nhưng gợi cho ta tiếng cười đầy chất u-mua (humour) của người Anh chính hiệu. Tính hài hước là liều thuốc vô giá, xua đi những muộn phiền. Tiếng cười ấy không tách rời niềm hi vọng khao khát trở về với nước Anh thân yêu của Rô-bin-xơn, thấm đượm tinh thần lạc quan của con người đầy bản lĩnh.
Khép lại trang sách, chân dung Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang vẫn sống động từng chi tiết, với nụ cười thường trực có sức hấp dẫn lạ kì. Rô-bin-xơn là hiện thân của con người lí tưởng không biết lùi bước trước bất kì thử thách khắc nghiệt nào. Bản lĩnh phi thường và tình yêu sự sống của chàng là bài học cho bất cứ ai muốn hoàn thiện giá trị tốt đẹp của con người. Ta chợt hiểu, vì sao Rô-bin-xơn Cru-sô của Đ. Đê-phô lại cuốn hút sự say mê của biết bao nhiêu thế hệ trên khắp hành tinh này!
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 4Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 5
“Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” là một trích đoạn trong tiểu thuyết nổi tiếng “Rô- bin- xơn Cru- xô” của nhà văn nổi tiếng người Anh là Dê- ni- ơn Đi- phô. Trích đoạn này đã tái hiện, xây dựng thành công bức chân dung của Rô- bin- xơn, một con người thích những phưu lưu, mạo hiểm nhưng sau một sự cố anh ta đã lưu lạc trên một hòn đảo hoang. Sống một mình ở nơi hoang vu, rộng lớn không có sự sống của con người nhưng Rô bin- xơn vẫn vô cùng lạc quan, yêu đời, điều mà không phải ai cũng có thể làm được, không phải ai cũng có thể mạnh mẽ vượt qua được như vậy.
Dê- ni- ơn Đi- phô bắt đầu sự nghiệp sáng tác văn chương của mình từ rất sớm nhưng không để lại được những dấu ấn rõ rệt, phải đến năm sáu mươi tuổi thì sự nghiệp văn chương của ông mới có những khởi sắc nhất định, ông cho ra đời những tác phẩm không chỉ có giá trị về nội dung mà nghệ thuật cũng vô cùng đặc sắc. Đó là những tiểu thuyết có giá trị, trong đó có tiểu thuyết nổi tiếng lẫy lừng, đó chính là “Rô- bin-xơn Cru-xô”. Trích đoạn “Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” chỉ là một trích đoạn rất ngắn trong cuoobs tiểu thuyết này. Đó là trích đoạn phác họa rõ nét bức chân dung của nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết này, đó chính là Rô- bin- xơn.
Mở đầu trích đoạn này, nhà văn đã đi khắc họa chân dung đầy kì quái của Rô- bin- xơn khi một mình sống trên đảo hoang. Thông thường, các nhà văn khác khi đi miêu tả chân dung cho nhân vật của mình thường bắt đầu miêu tả từ khuôn mặt đến vóc dáng, sau đó với đến những tiểu tiết của ngoại hình, nhưng ở đây, nhà văn Đi- phô đã đi miêu tả những chi tiết phụ trước sau đó mới đi sâu miêu tả khuôn mặt của anh ta. Đó chính là một người đàn ông với cách ăn mặc kì quái và mang theo bên người những đồ đạc lỉnh kỉnh. Ngoài ra bộ ria mép của anh ta cũng làm cho tổng thể hình dáng của anh ta trở nên kì quặc, khác thường.
Rô- bin- xơn vốn là một người ưa thích những chuyến đi mạo hiểm, những cuộc phưu lưu kì thú. Nhưng trong một lần đi biển cùng những người đồng đội, đó là chuyến đi xuất phát từ biển Bra-xin thì anh bị đắm thuyền, trôi dạt trên biển rồi cuối cùng bị dạt vào vùng đảo hoang. Đây là một hòn đảo hoang sơ, không có người sinh sống. Ngay qua bộ trang phục kì quặc, diện mạo kì lạ của Rô- bin- xơn ta có thể phần nào tưởng tượng được hoàn cảnh sống vô cùng khắc nghiệt nơi đây. Đó là bộ quần áo làm bằng da dê, không được may vá cẩn thận mà chỉ buộc lại với nhau một cách rúm ró, và đôi ủng của anh ta cũng làm bằng da dê. Chiếc mũ trên đầu Rô- bin- xơn cũng rất khác người, đó là “chiếc mũ to tướng, cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì”, làm bằng da của một con dê, với mảnh vải rủ xuống phía sau gáy nhìn thật kì quặc.
Với những điều kiện thiếu thốn, khắc nghiệt nơi đảo hoang thì những trang phục như vậy cũng được xem là khá tươm tất, hơn nữa chúng còn là những trang phục rất tiện lợi cho việc đi lại cũng như kiếm sống trên đảo hoang, vì nước cũng không thể thấm vào những miếng da dê, hơn nữa khi trời trở lạnh cũng có thể giữ ấm cho cơ thể. Trong trích đoạn này, Rô- bin- xơn đã tự thuật lại theo ngôi kể thứ nhất, giọng nói của anh ta khi kể về mình đầy hóm hỉnh, hài hước. Khác hẳn với con người đang bị cô lập nơi đảo hoang, một mình sống trong điều kiện khắc nghiệt nơi đây.
Trang phục của Rô- bin- xơn cũng rất kì quặc, đó là một chiếc áo làm bằng da dê, vạt áo dài đến lưng bắp đùi và chiếc quần rúm ró bằng da dê dài đến đầu gối. Trang bị mang trên người của Rô- bin- xơn cũng là những vật dụng kiếm được khi sóng biển cuốn chúng trôi vào bờ, đó là một chiếc cưa nhỏ và một chiếc rìu nhỏ. Qua những vật dụng này ta có thể thấy cuộc sống trên đảo hoang của Rô- bin- xơn không có những kẻ thù hay những nguy hiểm rình rập. Cưa và rìu tuy là những vật dụng đơn giản, thô sơ nhưng cũng rất hữu ích đối với Rô- bin -xơn vì chúng có thể dùng để cho việc mưu sinh của anh ta trên đảo hoang, có thể dùng để chặt cây, cưa gỗ dựng lều, lấy chỗ che mưa, che nắng, phòng trừ có thú dữ, ngoài ra còn có một khoảng đất trống dùng để nuôi dê sau này. Ta có thể thấy Rô- bin-xơn vô cùng lạc quan, vì ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất thì vẫn tin tưởng vào cuộc sống phía trước, lên kế hoạch cho tương lai. Đây là điều không phải ai cũng làm được, thể hiện một con người mạnh mẽ, đầy bản lĩnh.
Tuy là mảnh đất bị bỏ hoang, nằm giữa mênh mông sóng biển nhưng cũng thật may ở đây còn có những chú dê, vì vậy mà cuộc sống của Rô- bin- sơn có thể được duy trì. Ngoài ra anh ta còn mang theo bên mình một chiếc súng, thuốc súng và đạn gém. Nhờ vậy mà cuộc sống của anh ta ở trên đảo hoang này bớt khắc nghiệt đi rất nhiều, anh ta có thể săn dê để lấy thịt ăn, da dê thì làm trang phục, giày, bốt đi lại. Vì sự lạc quan, cùng với sức mạnh trai tráng, Rô- bin- xơn đã vượt qua mọi khó khăn, một mình vẫn có thể sống tốt nơi hoang đảo, không những thế mà về sau Rô- bin- xơn còn có thể tự trồng lúa mì nhờ những hạy lúa mì còn sót lại khi anh ta đi vớt những vật dụng còn lại khi con tàu đắm.
Như vậy, “Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” là đoạn trích thể hiện thật đẹp bức chân dung của Rô- bin- xơn một con người luôn yêu đời, sống lạc quan, những khó khăn nơi đảo hoang không là những trở ngại, không làm cho anh gục ngã mà dường như làm cho anh trở nên mạnh mẽ hơn, bản lĩnh hơn. Qua chân dung của Ro- bin- xơn, người đọc cũng có thêm những niềm tin vào cuộc sống, thêm yêu đời cũng như sống có ích hơn. Đó là những giá trị cao đẹp mà tác phẩm này mang lại cho người đọc.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 4
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 3Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 4
Đe ni ơn đi phô là nhà văn người Anh. Ông là một người tham gia rất tích cực tất cả các hoạt động chính trị của thời đại mình đồng thời cũng là một nhà văn dùng ngòi bút mình làm vũ khí chiến đấu. Ông đã viết hàng trăm tác phẩm về những vấn đề nhức nhối trong xã hội. Ông đã để lại một khối lượn tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thời đại. Kể đến những tác phẩm nổi tiếng của ông ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Ro bin xơn ngoài đảo hoang”. Tác phẩm kể về nhân vật Rô bin xơn thích ngao du đi phiêu lưu say mê những miền đất lạ.
Trước hết ta cùng nhìn nhận đánh giá vê hình dạng cũng như trang phục của Ro bin xơn đã được tác giả khắc họa như thế nào. Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên được nụ cười mỉm từ phía bạn đọc và có lẽ chính người tạo ra nó cũng phải thú vị trước hiệu quả, công dụng của chiếc mũ này. Không chỉ có chiếc mũ, mà cả áo, quần, “giày” cũng được làm bằng da dê – trang phục ấy không còn bất cứ dấu vết nào của đời sống văn minh.
Rô-bin-xơn tự ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về thô kệch trong bộ dạng từ đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo hoang đã hào phóng cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở chỗ tất cả đều được tạo nên từ bàn tay lao động, là công sức và sự khéo léo của chính chàng để chế tác ra những sản phẩm độc nhất vô nhị này ở đây ta thấy nhân vật, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt, dê, trứng rùa, bơ và phó mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.
Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí của mình của con người để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình. Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng cửa Rôbinxơn là một kỳ công. Sữa tươi, phó mát, bơ, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Cuộc sống gần ba mươi năm buồn tẻ không lấy mất được của chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên…”. Thông thường thì trong bức họa chân dung thì gương mặt được chiếm một phần quan trọng nhất được người nghệ sĩ quan tâm trước tiên sau đó mới đến trang phục và những thứ khác. Nhưng ở dây nó lại được tác giả xếp sau cùng và còn được dành cho những dòng rất ít ỏi.
Trên gương mặt của Ro bin xơn không có gì đặc biệt ngoài cái ria mép ta không hề biết đến những bộ phận khác như mắt mũi miệng. Ro bin xơn là một người nước Anh, thuyền chàng bị trôi dạt vào một bờ biển xích đạo. Anh đã sống một mình trong khoảng thời gian mười năm ngoài đảo hoang. Tất cả những điều đó làm nên một hình tượng nhân vật Ro bin xơn được tác giả khắc họa rất sinh động và nổi lên đó là tinh thần của một con người ngoài đảo hoang.
Cuộc sống của Ro bin xơn rất khó khăn cực nhọc như thế nhưng khi khắc họa chân dung của mình chàng không hề thốt ra những lời buồn đau hoặc gian khổ mà cả bài thơ ta chỉ thấy cái hài hước vui vẻ của con người này. Đằng sau nụ cười thấp thoáng qua lời kể, ta có thể hình dung ra quyết tâm và ý chí của một con người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo toan, tính toán từ “sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh, khẳng định bản năng sinh tồn mạnh mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc mũ da dê kì quái che đến tận cổ vì “chẳng có gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”.
Những công việc bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cũng là cách để chàng vượt qua cảm giác buồn chán thường dễ xảy đến với con người cô đơn. Chàng không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hiện rõ tư thế người làm chủ, bắt thiên nhiên phải khuất phục. Không những thế, qua những chi tiết chàng tự mô tả bản thân, ta hiểu Rô-bin-xơn đã tự chiến thắng chính mình.
Nhân vật “tôi” tự kể chuyện mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một nét buồn, có lúc hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khẳc “thịnh soạn” đàng hoàng. Cái rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong cô đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với tất cả sức mạnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được một bài học: Dám sống và biết cách sống; sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tác phẩm đã cho chúng ta thấy một con người Ro bin xơn hiện lên là một người có ý chí rất mạnh mẽ. Tác phẩm cũng làm một bài học đối với chúng ta là phải phấn đấu bám chắc với cuộc sống để có được một cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 2Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 3
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích chương 10 tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô cùa nhà văn Đi-phô người Anh trong thế kỉ XVIII. Tác phẩm lúc đầu mang một cái tên dài Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kỳ lạ của Rô-bin-xơn Cru-xô. Phiêu lưu và tự truyện là hai tính chất nổi bật của tác phẩm này. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang cũng như toàn bộ cuốn tiểu thuyết thấm nhuần một vẻ đẹp nhân văn, vừa cảm thông với sự rủi ro, bất hạnh của một con người, vừa ca ngợi sức sống mạnh mẽ, đầy nghị lực và sáng tạo của một thanh niên giữa một thiên nhiên hoang dã, ngoài hoang đảo!
Nhiều năm tháng đã trôi qua, Rô-bin-xơn đã sống một mình giữa hoang vu. Trước mắt vẫn là những chặng đường đầy thử thách. Anh nói: “ Tôi sống yên ổn trên đảo và chịu đựng số phận của mình hơn một năm nữa’’. Ta như đang nghe tiếng anh thầm thì kể lại những nếm trải cay đắng ngọt bùi. Tiếng anh như chìm đi trong sóng gió đại dương đang bủa vây hoang đảo.
Anh đã nói với chúng ta những gì anh đã làm và anh đã sống trong ngót ba thập kỷ. Cô đơn, thú dữ, bệnh tật, thiếu thốn. Không thể chết được! Phải sống và biết cách sống. Vốn là một thanh niên ưa mạo hiểm, thích làm giàu, giờ đây hoàn cảnh khắc nghiệt đã rèn luyện anh trở thành một con người “lành nghề trong nhiều ngành thủ công”. Anh làm việc không mệt mỏi để không còn thì giờ “nghĩ ngợi vẩn vơ”. Đó cũng là một phương pháp tư tưởng đúng đắn tích cực. Nhờ thế, anh đã trở thành một thợ nặn rất khéo, năn được đủ thứ vật dụng, từ chum vại, bình vò đến bát đĩa. Anh đã trồng được thuốc để hút, giờ đây lại nặn được cái tẩu “tuyệt mĩ” nữa, vì thế anh vô cùng “thích thú”. Anh dùng cây miên liễu để đan lát. Đan thúng để quảy mồi săn được, đựng hoa trái kiếm được. Đan bồ đựng thóc, đan được nhiều đồ dùng khác nữa. Nói lao động là sáng tạo, lao động là phát triển năng khiếu thẩm mĩ của con người, trong trường hợp này đối với Rô-bin-xơn là hoàn toàn đúng.
Ở đời, những kẻ yếu hèn dễ bị khó khăn quật ngã. Với Rô-bin-xơn, anh đã trải qua một vạn ngày cô đơn trên hoang đảo rồi! Tuổi trẻ đã trôi qua. Thể lực và chí khí đã hao mòn. Chặng cuối cùng bao giờ cũng vậy, khó khăn, thử thách như được nhân lên một cách ghê gớm! “Thuốc đắng cạn liều càng thấy đắng – Đường gay cuối chặng lại thêm gay” (Hồ Chí Minh). Đó là quy luật. Rô-bin-xơn cho biết hoàn cảnh mình: “ Thuốc đạn ngày càng khan, thực phẩm cũng vơi dần”. Bước sang năm thứ 11 ở trên đảo, anh đã bắt tay vào việc chăn nuôi, sau khi đã trồng lúa, trồng mạch thành công. Anh đã đánh bẫy dê rừng, làm chuồng và nuôi nấng, thuần dưỡng dê. Chỉ 2 năm sau, anh đã có một đàn dê lên tới 43 con để giết thịt ăn dần. Vừa giàu chí khí, vừa giàu sáng tạo và khéo chân tay, anh đã biết vắt sữa, làm bơ, làm pho mát, thuộc da dê may áo quần, trồng hoa quả. Anh đã nói về đời sống vật chất của mình trên hoang đảo sau những năm dài vật lộn, với tất cả niềm vui ánh lên tự hào:
“ Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”. Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí của mình – của con người – để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình. Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng của Rô-bin- xơn là một kỳ công. Sữa tươi, pho mát, bơ, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Người đọc gần 300 năm nay trên trái đất vô cùng khâm phục anh – một con người bất hạnh mà vĩ đại.
Phần sau của chương 10 nói về “Một vài nét hình thù ông “chúa đảo” khi đi chu du trong vương quốc của mình”. Đây là bức chân dung tự họa rất hóm hỉnh giàu giá trị nhân bản, một điều rất thú vị là trên cái ” vương quốc” hoang đảo này, chỉ có một vị “chúa đảo” là Rô-bin-xơn, chỉ có một thần dân, đó cũng là Rô-bin-xơn. Anh đã nói về trang phục, về mày râu của mình. Ta có thể đi theo vị “chúa đảo” mà chiêm ngưỡng. Bộ áo quần bằng da rất kỳ lạ, có thể làm “kinh sợ” hay “bò ra mà cười” ai đó khi lần đầu bắt gặp. Cái mũ bằng da dê “cao lêu đêu”.
Một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê “tà áo chấm ngang đầu gối” rất quý tộc; cái quần ngắn may bằng da dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng đến mắt cá, thành ra quần đùi mà không khác quần dài! Cái thắt lưng cũng bằng da đê để giắt cưa và búa. Hai cái túi bằng da dê “hình dáng lạ lùng” để dựng đạn ghém và đựng thuốc súng, đeo lủng lẳng bằng một dây da vòng qua cổ. Đây là những nét miêu tả rất hiện thực nói lên cuộc sống của con người nơi hoang đảo về mặt trang phục, hình hài đã trở nên “cổ quái”, kỳ dị. Vì thế chàng trai Rô-bin-xơn càng ngày càng ‘‘ rám nắng, đen sạm lại”. Râu thỉnh thoảng được cạo nhưng vẫn “đâm ra tua tủa như chổi xể”.
Trên mép là môt cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ “vừa dài vừa rậm khác thường”. Chó vốn là một vật nuôi vô cùng tinh khôn, Rô-bin-xơn có một con chó như một người bạn, một vệ sĩ rất trung thành với chủ, từng chia ngọt sẻ bùi với chủ, mà nay, có lúc nhìn “lệ bộ” da dê, râu ria của Rô-bin-xơn, nó có vè “kinh ngạc khiếp sợ”, nó “nghi nghi hoặc hoặc”, sợ hãi, dò xét “cái con quái vật kỳ dị kia là bạn hay là thù’’. Đó là chất hoang dã lấn chiếm, hoang dã hóa con người. Phải có một sức mạnh to lớn lắm mói chế ngự và hạn chế sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên nơi hoang đảo.
Có người đã từng ngợi ca, đoạn văn Rô-bin-xơn ngoài hoang đảo là bài ca lao động sáng tạo hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm. Cái vĩ đại và đáng quý nhất ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 1Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 2
Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 – 1731) là nhà văn Anh, sinh ra và lớn lên ở Luân Đôn, trong một gia đình buôn bán nhỏ. Ông từng làm nhiều nghề, họat động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội và đi nhiều nơi trên thế giới. Hoàn cảnh sống ấy đã ảnh hưởng đến quan điểm sáng tác của ông và để lại dấu ấn khá rõ trong tác phẩm văn học. Tuy mãi đến năm sáu mươi tuổi, Đi- phô mới đến với văn chương nhưng ông đã để lại cho đời một số tiểu thuyết có giá trị, trong đó cuốn Rô-bin-xơn Cru-xô là nổi tiếng hơn cả.
Tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô nhan đề đầy đủ là Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kì lạ của Rô-bin-xơn Cru-xô. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện mà nhân vật chính là Rô-bin-xơn. Tóm tắt nội dung như sau:
Rô-bin-xơn sinh năm 1632 ở Yoóc-sai. Là người ham thích phiêu lưu, mạo hiểm, chàng say sưa đi đến những miền đất lạ, bất chấp gian nan, nguy hiểm. Rô-bin-xơn xuống tàu ở cảng Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Cuộc hành trình không thành vì tàu bị đắm ở Y-a-mớt. Tai họa ấy chẳng làm chàng trai nhụt chí. Cha mẹ khóc lóc, bạn bè can ngăn cũng không lay chuyển được ý chí và quyết tâm của chàng. Lần này, chàng làm quen với một viên thuyền trưởng tàu buôn, rời bến đi Ghi-nê. Chuyến đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Chuyên thứ hai gặp cướp biển, Rô-bin-xơn bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê, một hải cảng của Ma-rốc. Hai năm sau, chàng trốn thoát sang Bra-xin lập trang trại trồng trọt. Ít năm sau, nghe mấy người bạn rủ rê, chàng lại xuống tàu đi Ghi-nê, định thực hiện một chuyến buôn bán đổi chác lớn. Tàu gặp bão, mất phương hướng rồi bị đắm.
Các thủy thủ trên tàu chết hết, chỉ còn một mình Rô-bin-xơn sống sót dạt vào đảo hoang. Hôm ấy là ngày 30 tháng Chín 1659, Rô-bin-xơn hai mươi bảy tuổi. Trơ trọi một mình giữa chốn hoang vu chẳng có dấu chân người nhưng chàng không tuyệt vọng. Sau khi vớt vát từ chiếc tàu đắm những thứ gì còn có thể dùng được như: bao lúa mì, chút thực phẩm, mấy khẩu súng, bao đạn ghém, hòm đồ nghề thợ mộc… chàng lên hoang đảo dựng túp lều dưới chân núi để che nắng, che mưa và rào giậu kín xung quanh đề phòng thú dữ. Ngày ngày, chàng săn bắn và kiếm cây rừng, quả dại để ăn. Sau đó, chàng tự tay trồng trọt, chăn nuôi nên cuộc sống dần dần ổn định và ngày càng đầy đủ hơn. Tuy quanh quẩn chỉ có con chó và con vẹt làm bạn, nhưng Rô-bin-xơn cũng cảm thấy sung sướng mỗi khi ngắm nhìn cơ ngơi do mồ hôi, công sức của mình gây dựng nên.
Một hôm, tình cờ Rô-bin-xơn phát hiện những thổ dân ở vùng biển ghé thuyền lên đảo để hành hình tù binh. Chàng chiến dấu rất dũng cảm, cứu được một nạn nhân thoát khỏi bọn ăn thịt người. Rô-bin-xơn đặt tên cho người da màu vừa thoát nạn là Thứ Sáu để ghi nhớ ngày hôm ấy. Từ đó, hai người chung sống với nhau và Rô-bin-xơn cảm thấy đỡ cô đơn. Ít lâu sau lại xuất hiện đám thổ dân khác cùng với hai tù binh, một người Tây Ban Nha, còn người kia chính là cha của anh chàng Thứ Sáu. Cả hai đều được Rô-bin-xơn cứu thoát. Cuộc sống trên đảo càng thêm đông vui. Cuối cùng, một chiếc tàu buôn ghé đậu ở cái vịnh nhỏ gần nơi Rô-bin-xơn ở. Bọn thủy thủ nổi loạn chiếm tàu, trói thuyền trưởng, thuyền phó giải lên bờ, định bỏ cho chết dần trên đảo. Rô-bin-xơn giúp viên thuyền trưởng thu hồi được tàu. Chàng trở về quê hương, mang cả Thứ Sáu cùng đi. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày sống trên đảo hoang, Rô-bin-xơn đành chia tay với nơi chàng đã có bao kỉ niệm vui, buồn không thể nào quên.
Qua bức chân dung tự họa và giọng kể của Rô-bin-xơn trong đoạn trích, chúng ta hình dung được cuộc đời vô cùng gian khổ và tinh thần lạc quan hiếm có của nhân vật khi phải sống một mình nơi đảo hoang suốt mấy chục năm trời. Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang chỉ là một đoạn ngắn trong cả một cuốn tiểu thuyết dài. Đoạn trích là bức chân dung tự họa khá cụ thể và đầy đủ của nhân vật Rô-bin-xơn. Bức chân dung tự họa được tác giả miêu tả bằng bốn đoạn văn. Đoạn thứ nhất: Nhân vật tự giới thiệu. Đoạn thứ hai và thứ ba: Trang phục của Rô- bin-xơn. Đoạn thứ tư: Diện mạo của Rô-bin-xơn. Thông thường, trong một bức chân dung thì gương mặt nhân vật chiếm vị trí quan trọng nhất, sau đó mới đến trang phục và các thứ khác. Thế nhưng ở đây, gương mặt lại được miêu tả sau cùng chỉ bằng một vài dòng và chi tiết được đặc tả lại là bộ ria mép.
Chủ ý của Rô-bin-xơn là muốn giới thiệu với độc giả cách ăn mặc kì quặc và những đồ lề lỉnh kỉnh mà chàng mang theo người. Do đứng ở ngôi thứ nhất để kể chuyện nên Rô-bin-xơn chỉ có thể kể về những gì chàng nhìn thấy được. Rô-bin-xơn là người Anh, một đất nước nằm ở miền ôn đới phía bắc bán cầu. Trong một chuyến đi biển xuất phát từ Bra-xin, chàng bị đắm tàu và dạt vào một đảo hoang thuộc vùng xích đạo. Qua bộ trang phục kì dị của chàng, chúng ta có thể hình dung phần nào thời tiết khắc nghiệt và sức chịu đựng phi thường của Rô-bin-xơn. Trang phục tự tạo của Rô-bin-xơn tất cả đều làm bằng da dê. Mũ bằng tấm da dê; bộ quần áo là những tấm da dê buộc túm lại và đôi ủng cũng bằng da dê nốt.
Rô-bin-xơn đội cái mũ không giống bất cứ một kiểu mũ nào. Đó là một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy. Tuy xấu xí như vậy nhưng nó hết sức tiện lợi, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt. Rô-bin-xơn vừa kể, vừa tả mình với giọng điệu khôi hài, hóm hỉnh: Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và mỗi cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dế đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chằng khác nào quần dài; tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên…, nhưng hình dáng hết sức kì cục chẳng khác gì áo quần của tôi.
Còn trang bị trên người ra sao? Rô-bin-xơn kể tiếp: Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa hai bên cổ hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bàng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi.
Rô-bin-xơn không đeo kiếm và dao găm mà lại đeo một cái cưa nhỏ và một cái rìu nhỏ, chứng tỏ trên đảo hoang chàng không có kẻ thù. Cái cưa, cái rìu rất cần thiết để cho chàng dùng vào việc chặt cây, cưa gỗ đựng lều, lấy chỗ che nắng che mưa, rào giậu xung quanh chỗ ở đề phòng thú dữ và sau này còn rào một khoảnh đất rộng để nuôi dê… Trên hòn đảo hoang này có rất nhiều dê rừng. May ma Rô-bin-xơn còn giữ được cây súng, thuốc súng và đạn ghém. Nhờ có những thứ đó mà chàng duy trì được cuộc sống qua bao nhiêu năm. Về sau, chàng còn trồng được lúa mì nhờ mấy hạt lúa tình cờ sót lại trong những thứ vớt vát từ con tàu đắm và chàng còn bẫy được cả dê về nuôi cho chúng sinh sản thành bầy.
Cuộc sống hết sức khó khăn của Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang hiện lên thấp thoáng qua những chí tiết của bức chân dung tự họa. Đồng thời, bức chân dung kì dị ấy cũng thể hiện bản lĩnh, ý chí và nghị lực tuyệt vời của Rô-bin-xơn khi đối mặt với nỗi cô đơn và cái chết. Tự họa chân dung của mình, Rô-bin-xơn không hề thốt ra lời than phiền đau khổ nào. Trọng bộ trang phục kì dị ấy, trông Rô-bin-xơn chẳng khác gì người nguyên thủy. Đã vậy, các đồ lề lỉnh kỉnh đeo quanh lưng càng khiến chàng chẳng giống ai. Rô-bin-xơn hiện lên trước mắt chúng ta như một vị chúa đảo thời tiền sử trị vì trên đảo quốc của mình.
Tuy diện mạo của Rô-bin-xơn chỉ được tả bằng một đoạn văn ngắn nhưng cũng toát lên tính cách của chàng: Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo. Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho nó mọc dài đến hơn một gang tay. Nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo đủ dùng nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê, vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nối cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mủ của tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng củng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.Giọng kể hóm hỉnh của Rô-bin-xơn thể hiện rõ khiếu hài hước và tinh thần lạc quan của chàng.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” số 1
Rô-bin-xơn là một chàng trai có ý chí, nghị lực phi thường và lòng yêu đời mãnh liệt, mãnh liệt ngay cả trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Chính những phẩm chất tốt đẹp của chàng đã khơi dậy trong chúng ta niềm tin ãnh liệt vào cuộc sống hiện tại, một ý chí sắt đá, một nghị lực thép trong học tập và rèn luyện đạo đức để mai này giúp ích được cho bản thân và xã hội.
Đăng bởi: Hà Phương Phan Thị
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích tác phẩm “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” của Đi-phô
Văn Mẫu Lớp 7: Phân Tích Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Của Hồ Chí Minh (Dàn Ý + 8 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất Lớp 7
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng
Dàn ý phân tích bài thơ Rằm tháng giêngI. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh.
Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng giêng”.
II. Thân bài
1. Thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng
– Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” – trăng đúng lúc tròn nhất.
– Sức sống của mùa xuân: “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
2. Hình ảnh con người trong đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc
– Công việc: “đàm quân sự” – bàn việc quân nghĩa là bàn việc kháng chiến, bàn việc sinh tử của của dân tộc.
– Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: gợi sức lan tỏa của ánh trăng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý nguyện, mong muốn vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng.
III. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Đánh giá giá trị của tác phẩm.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 1Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) là một trong những bài thơ nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm trăng cũng như qua đó bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu nặng của Người:
Có lẽ hình ảnh ánh trăng không còn xa lạ gì trong thơ ca. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng nhớ trong thơ Lý Bạch:
Ánh trăng trong thơ Lý Bạch dường như mang nỗi nhớ về quê hương. Còn trong “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng lại mang một ý nghĩa khác.
Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh ánh trăng trong một đêm rằm tháng giêng với vẻ đẹp “nguyệt chính viên” – đó là lúc trăng ở vào độ tròn đầy và sáng nhất. Ánh trăng trong đêm rằm vốn đã đẹp nhưng ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng lại đẹp hơn cả. Không chỉ vậy, sắc xuân từ ánh trăng giống như đang bao trùm lên mọi cảnh vật khiến cho “sông xuân”, “nước xuân” và “trời cũng thêm xuân”. Từ “xuân” được điệp lại tới ba lần như muốn khẳng định sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian. Không gian ấy mở rộng ra cả ba chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu làm cho cảnh vật thiên nhiên trở nên rộng lớn hơn chứ không bó hẹp. Sự nối tiếp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” cũng gợi ra vẻ đẹp giao hòa giữa bầu trời và mặt đất đều tràn ngập ánh trăng.
Trong bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên đi một nhiệm vụ quan trọng. Những năm tháng chiến tranh, mọi công việc hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách âm thầm và kín đáo. Chính vì vậy, những người chiến sĩ cách mạng đã lựa chọn thời điểm trong đêm khuya để bàn bạc việc quân việc nước. Vì quá say sưa bàn luận mà họ dường như quên mất đi thời gian, để đến khi công việc đã xong xuôi mới nhận ra đêm đã khuya. Và ánh trăng lúc này cũng là sáng nhất. Hình ảnh “con thuyền” ẩn dụ cho sự thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng giống như thắng lợi của cách mạng không còn xa nữa. Đó chính là niềm tin của Bác Hồ vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng đầy thơ mộng cùng tình yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, người đọc cũng thấy được một tâm hồn thi sĩ đầy tinh tế nhạy cảm của Bác Hồ.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 2Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của chủ tịch Hồ Chí Minh
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm tại chiến khu Việt Bắc:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng được nhà thơ miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng lúc này dường như bao phủ khắp núi rừng Việt Bắc khiến cho cảnh vật trở nên ấm áp hơn. Đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn:
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng tràn đầy sức sống.
Đến hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người đã xuất hiện với một công việc thật cao cả:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Phải chăng vì quá say sưa bàn bạc việc quân việc nước, mà khi trở về thì đêm đã về khuya? Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Qua đó, Bác Hồ muốn thể hiện khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc như thấy được một phong thái ung dung, lạc quan và lòng tin bất diệt của Người vào sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi.
“Rằm tháng giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, sông nước, trời đất, con thuyền. Cùng với việc kết hợp biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả được bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc thật sinh động.
Qua bài thơ trên, ta không chỉ thấy được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm mà còn là con người kiên cường và trung thành với cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 3Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Người được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn với vị trí của một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong số những tác phẩm Bác để lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” là một tác phẩm nổi bật để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư sâu sắc.
Năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Sau khi họp xong thì đêm cũng đã khuya. Hình ảnh ánh trăng sáng lan tỏa khắp không gian núi rừng rộng lớn. Cùng với sự giao hòa của cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này:
Câu thơ mở đầu gợi ra cho người đọc hình dung về một đêm rằm tháng giêng, ánh trăng đúng lúc tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến độ có thể thắp sáng vạn vật. Để rồi cả “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra một không gian thật rộng lớn. Từ “tiếp” gợi cho người đọc hình dung ra hình ảnh bầu trời và mặt đất dường như không còn khoảng cách để rồi như hòa hợp lại thành một. Trong thơ ca cổ, những hình ảnh “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Bác lại làm nổi bật nên một bức tranh đầy hiện đại mang vẻ tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống của vạn vật.
Mà đó là hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Khi khắc họa hình ảnh này, Bác đã làm nổi bật lên tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng – họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Công việc quan trọng của quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù cũng gợi lên một hình ảnh độc đáo lại nên thơ. Chỉ đến khi công việc bàn bạc đã xong xuôi, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã quá khuya. Ánh trăng lúc này giống như đang lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Trăng dâng đầy lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh dường như đã lay động tâm hồn nhà thơ. Khi công việc nước đã xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Cảnh tượng thiên nhiên khiến tâm hồn thi sĩ rung động, bồi hồi.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã bộc lộ được tình yêu thiên nhiên cũng như lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ. Đồng thời, qua đó Bác cũng gửi gắm một niềm tin chiến thắng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 4Nguyên tiêu là bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được viết trong thời gian kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông 1947 sang Xuân Hè 1948 quân ta lại thắng lớn trên đường số 4. Niềm vui thắng lợi tràn ngập tiền tuyến, hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đoá hoa xuân ngọt ngào rực rỡ sắc hương.
Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời vầng trăng tròn vành vạnh:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì có hơi thở của mùa xuân. Đêm rằm, trăng sáng ánh trăng lồng lộng dát vàng trên nền trời, phủ khắp chốn trần gian, ánh trăng tràn mọi nẻo… Ánh trăng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình lung linh sinh sắc. Đất nước, quê hương bao la một màu xanh bát ngát, màu xanh lấp lánh của xuân giang, dòng sông như được tiếp thêm sức sống mới dưới khí trời mát dịu. Dòng sông trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn, dòng sông xanh xuân thủy và tiếp nối với màu xanh của xuân thiên.
Mùa xuân là mùa của chồi non, sự sống. Xuân phơi phới có ở khắp mọi nơi, xuân của dòng sông, dòng nước, không gian cao rộng của bầu trời. Khí xuân tràn ngập sự sống, ba từ xuân làm nổi bật cái thần của cảnh vật, sông nước và bầu trời:
“Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Xuân trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ và vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất trời vào xuân. Khi vào xuân, con người tạo vật như bừng tỉnh, rạo rực trong cuộc sống mới. Nhà thơ Thanh Hải đã từng cảm nhận mùa xuân cua thiên nhiên và đất trời qua những tín hiệu đặc sắc:
(Mùa xuân nho nhỏ)
Xuân đến, tiếng chim hót vang lừng, giọt mùa xuân long lanh do đất trời ban tặng làm cho sự sống rạo rực hơn và bất tận.
Trong câu thơ của Bác xuân còn gợi tả màu xanh của sông nước, trời đất vào xuân, sức sống mãnh liệt, trẻ trung căng tràn nhựa sống. Niềm vui sướng tự hào phơi phới của Bác đang ngây ngất say sưa giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử – đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác, yêu trăng, yêu xuân chính là yêu cuộc đời. Trái tim mênh mông của người chan hoà với thiên nhiên, sông núi, hoa lá cỏ cây thật hữu tình. Có trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa, trăng vào cửa sổ đòi thơ trong niềm vui thắng trận. Và xem sách chim rừng vào cửa đậu – phê văn hoa núi ghé nghiêng soi. Thiên nhiên trong thơ Bác thật phong phú và chan chứa chất thơ.
Đến hai câu thơ cuối, ta thấy cảm nhận về dòng sông, về khói sóng, và con thuyền được nâng lên một mức:
Nhớ ánh trăng ngày nào khi Bác còn bị giam dưới ngục lạnh nơi đất khách quê người (1942-1943) thì đêm nay – đêm rằm tháng giêng (1948) lại bắt gặp ánh trăng nơi chiến khu Việt Bắc. Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang đàm quân sự. Ánh trăng đêm này là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu. Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ. Bác thưởng trăng trên khói sóng, người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các bậc tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là con người hành động, người chiến sĩ cộng sản đánh giặc. Vị lãnh tụ đang bàn bạc việc quân trên con thuyền nhẹ lướt giữa sông nước trời xuân đây là trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt, yên ba là khói sóng, thi liệu cổ của Đường thi. Vậy là câu thơ có nét cổ điển và có nét hiện đại, chất hiện đại đó chính chất thép, chất chiến đấu của người chiến sĩ cộng sản: Nay ở trong thơ nên có thép – Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Sau quãng thời gian bàn bạc việc quân, đêm đã về khuya, nửa đêm (dạ bán). Con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng trên vời sông nước mênh mông:
(Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền)
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Hình ảnh nguyệt mãn thuyền gợi cho chúng ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:
(Bạch Cư Dị)
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Nguyên tiêu ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ ẩn hiện sau màn sương khói. Trên chiếc thuyền hình ảnh thi sĩ – chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ với bàn bạc việc quân trong đêm trăng, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, quyết chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Nguyên tiêu là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang phong vị Đường thi. Bài thơ có nét thơ cổ thể: con thuyền, trăng, sóng, xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng… điệu thơ thanh nhẹ. Trong khung cảnh ấy chất chiến sĩ là trung tâm. Bài thơ như một đoá hoa xuân, tinh hoa kết tụ tâm hồn trí tuệ, đạo đức Hồ Chí Minh.
Văn là người, thơ là tấm lòng. Bài thơ này thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, đồng thời bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Cốt cách thi sĩ hoà quyện chất chiến sĩ chất chứa đầy ắp trên chiếc thuyền kháng chiến đang tiến nhanh về bến bờ độc lập tự do.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 5Rằm tháng giêng là bài thơ nổi tiếng của Bác, được viết vào đúng rằm tháng giêng năm 1948 ở chiến khu Việt Bắc. Bài thơ đã cho thấy sự tinh tế của Bác trong cách cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, và tâm hồn thi sĩ hòa quyện với tâm hồn của người chiến sĩ.
Ta có thể hình dung khung cảnh bầu trời cao rộng trong trẻo, nổi bật là nền trời ấy là ánh trăng tỏa rạng, sáng ngời. Bức tranh của Bác gợi nhiều hơn tả, khung cảnh được vẽ rộng mênh mông, với vài nét phác họa đơn sơ, Người chú ý đến toàn cảnh mà ít đi vào miêu tả chi tiết, cụ thể, đây cũng là cách miêu tả phổ biến trong thơ ca cổ điển. Cả dòng thơ thứ hai tràn ngập sức sống mùa xuân, câu thơ mở rộng ở cả hai chiều, chiều rộng xuân giang, chiều cao xuân thiên, khiến cho khung cảnh càng trở nên rộng rãi, khoáng đạt hơn. Đồng thời sử dụng liên tiếp ba chữ xuân cũng cho thấy sức sống mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi. Bác như một tao nhân mặc khách, ung dung thưởng tức không khí xuân nhẹ nhàng, yên bình.
Nhưng thật bất ngờ, trong bầu không khí ấy lại đang diễn ra cuộc họp bàn việc quân sự, bàn việc đất nước: Yên ba thâm xứ đàm quân sự. Đối chiếu với nguyên tác ta có thể thấy phần dịch thơ đã không dịch hai chữ “yên ba” có nghĩa là khói sóng. Lược bỏ đi đã làm mất đi cái hư thực, huyền bí của không gian đêm khuya. Ba chữ “đàm quân sự” rất hiện đại và mang âm hưởng của thời đại.
Đặt trong hoàn cảnh đất nước đang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ta càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, chủ động, lạc quan của vị lãnh tụ. Mặc dù vẫn ngày đêm lo nghĩ cho việc nước, nhưng Bác vẫn dành ra chút thời gian ít ỏi để rung cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên. Phong thái ung dung còn được thể hiện trong câu thơ cuối: Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Con thuyền của Bác sau khi bàn việc quân tràn ngập ánh trăng, lướt đi phơi phới như đang chở một thuyền trăng trở về.
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách hiện đại. Những thi liệu cổ như con thuyền, vầng trăng,… đã biến Bác thành một thi nhân hòa mình vào thiên nhiên. Không gian núi rừng để đàm đạo quân sự lại đầy chất hiện đại. Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, lời ít ý nhiều , tạo sức gợi cho ngôn từ và hình ảnh.
Bài thơ với ngôn ngữ cô đọng, chắt lọc tinh tế đã cho ta thấy Bác ở những chiều kích khác nhau. Đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, rung cảm trước vẻ đẹp của vạn vật khi xuân sang. Không chỉ vậy, đó còn là tâm hồn của một chiến sĩ, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước, nhưng hơn hết vẫn thể hiện được phong thái ung dung, lạc quan trong cuộc đời kháng chiến đầy gian khổ.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 6“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên Tiêu”,… Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số Bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương.
Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ của Bác Hồ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát:
Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm tin dào dạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu Trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên).Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”, màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thiên thanh của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu Trời:
“Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm “Xuân”)
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất Trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dào dạt một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hóa núi ghé nghiêng soi”, yêu ngọn gió, giọt mưa báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc trữ tình và màu sắc cổ điển.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào nhà ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu.
Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”… mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la!. Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác Hồ vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ “Đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho văn thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, Trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền trở thành con thuyền trăng, nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình nó làm ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:
(Triệu Hổ, Đường thi)
(Bạch Cư Dị)
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy Trời quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.
“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của một bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, Trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thường trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”.
Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh. Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt..” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu Trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung.
Advertisement
Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. “Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 7Rằm tháng giêng được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng. Đồng thời, Bác còn gửi gắm tình yêu thiên nhiên, cũng như tấm lòng yêu nước sâu sắc.
Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được Bác khắc họa trong một đêm trăng:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Nhưng không phải là một đêm trăng bình thường, mà là đêm rằm tháng giêng. Trăng lúc này đang ở độ đẹp nhất – “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Mọi vật tại nơi đây đều nhuốm màu của ánh trăng.
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Bác đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ – từ “xuân” được nhắc lại ba lần nhằm nhấn mạnh vào sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Hai câu thơ mở đầu đã khắc họa nên một bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đầy chân thực, sống động.
Trong bức tranh đó, con người xuất hiện với tư cách là chủ thể trữ tình:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Đặt vào hoàn cảnh lúc bây giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Bởi vậy mà Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân. Đó là những việc quan trọng, có tính quyết định đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Vì quá hăng say bàn bạc việc quân, việc nước mà đến khi công việc xong xuôi thì trời cũng đã về khuya. Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. H ai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.
Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển, cùng với việc sử dụng biện pháp tu từ, Hồ Chí Minh đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng giêng thật sống động.
Rằm tháng giêng thể hiện được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm. Cùng với đó, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên với phong thái ung dung, lạc quan và đầy lãng mạn.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 8Chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều bài thơ hay. Một trong số đó là bài “Rằm tháng giêng” đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên nơi chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng:
Trăng vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca, đặc biệt là trong thơ Bác. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng gợi nhớ về quê hương trong thơ Lí Bạch:
Hay trong chính thơ của Bác, ánh trăng cũng xuất hiện trong bài thơ Cảnh khuya:
Đến “Rằm tháng giêng”, ánh trăng xuất hiện với nét độc đáo. Trước hết, đây không phải là một đêm trăng bình thường, mà là đêm rằm tháng giêng. Trăng đang ở độ tròn đầy nhất, đẹp nhất và sáng nhất – “nguyệt chính viên”. Bởi vậy, ánh sáng của trăng chiếu xuống cảnh vật khiến cho thiên nhiên tràn đầy sức sống, vẻ đẹp. Đến câu thơ tiếp theo, Bác đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ – từ “xuân” được nhắc lại ba lần. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Thiên nhiên lúc này đang nhuốm đậm sắc xuân. Mọi vật tràn đầy sức sống đang căng mình trỗi dậy giữa đất trời. Như vậy, hai câu thơ đầu đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên đêm trăng vô cùng sinh động.
Đến với hai câu thơ tiếp, con người đã xuất hiện, nhưng với tư cách là chủ thể trữ tình:
Trong thơ ca xưa, con người xuất hiện trước thiên nhiên vô cùng nhỏ bé, mờ nhạt:
(Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)
Nhưng trong thơ Bác, con người đã xuất hiện với tư cách là chủ thể trữ tình. Mặc dù trong hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh, mọi hoạt động đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo, nhưng con người vẫn hiện lên với tư cách là trung tâm. Ở đây, Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân. Đó là những việc quan trọng, có tính quyết định đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Bởi vì quá hăng say bàn bạc việc quân, việc nước mà đến khi công việc xong xuôi thì trời cũng đã về khuya. Bác chợt nhận ra vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.
Tóm lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã khẳng định tình yêu thiên nhiên, cùng với lòng yêu nước sâu sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Văn Mẫu Lớp 12: Đoạn Văn Nghị Luận Về Lòng Vị Tha (Dàn Ý + 17 Mẫu) Viết Đoạn Văn Về Lòng Vị Tha
Viết đoạn văn 200 chữ về lòng vị tha
Dàn ý viết đoạn văn về lòng vị tha
Đoạn văn về lòng vị tha
Viết đoạn văn 200 chữ về lòng vị tha
Viết đoạn văn về lòng vị tha
Viết đoạn văn ngắn về lòng vị tha
Nghị luận 200 chữ nghị luận về lòng vị tha
Dàn ý viết đoạn văn về lòng vị tha1. Mở đoạn
Giới thiệu và dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: lòng vị tha.
2. Thân đoạn
a. Giải thích
Vị tha là tấm lòng rộng lượng, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua cho lỗi lầm của người khác; đồng thời người có lòng vị tha là người có tấm lòng nhân hậu với mọi người. Vị tha là một đức tính tốt đẹp mà mỗi chúng ta cần có.
b. Phân tích
* Biểu hiện của người có lòng vị tha:
Người có lòng vị tha thường không tính toán thiệt hơn, hơn thua với người khác, sẵn sàng nhường nhịn trong một cuộc tranh đấu.
Người có lòng vị tha là người sẵn sàng tha thứ với lỗi lầm của người khác với mình để tiếp tục duy trì mối quan hệ hiện tại.
* Ý nghĩa của lòng vị tha trong cuộc sống:
Việc vị tha, tha thứ cho lỗi lầm của người khác góp phần làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn, mối quan hệ sẽ vẫn có thể duy trì được.
Vị tha với người khác sẽ làm chúng ta cảm thấy thanh thản, thoải mái hơn, đồng thời chúng ta cũng được người khác yêu thương, tôn trọng hơn.
Nếu tất cả con người trong xã hội không có lòng vị tha thì xã hội sẽ thiếu đi tình thương của con người, con người sẽ trở nên xa lánh nhau.
c. Phản đề
Trong xã hội vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, để đạt được mục tiêu của mình không ngại làm chuyện xấu
Lại có những người quá vị tha không biết lựa chọn đúng sai mà tha thứ cho những lỗi lầm không xứng đáng để làm khổ bản thân mình hết lần này đến lần khác.
3. Kết đoạn
Khái quát lại vấn đề nghị luận: lòng vị tha, đồng thời rút ra bài học cho bản thân.
Đoạn văn về lòng vị thaTrong cuộc sống luôn có những điều mà ta chẳng bao giờ hài lòng, có những lời nói khiến ta bị tổn thương, có những cách đối xử làm ta buồn rười rượi…Nhưng điều quan trọng là sau tất cả những điều đó,ta vẫn có lòng vị tha. Ngạn ngữ có câu: “Hãy tha thứ và hãy quên!”, nhưng phần lớn chúng ta thường cảm thấy quên dễ hơn nhiều so với việc tha thứ cho một người nào đó đã làm ta đau lòng,việc tha thứ đòi hỏi một người phải có tấm lòng nhân hậu sâu sắc,biết yêu thương mọi người và bỏ qua tất cả tội lỗi mà họ đã làm.Nhưng so với thực tế,chẳng mấy ai có thể làm được như vậy.Song nếu nhìn lại,việc tha thứ cho một người nào đó có thể khiến ta cảm thấy thật sự thanh thản,nhẹ nhõm. Nếu cứ gặm nhấm những nỗi đau và âm ỉ sự phục thù, ta sẽ bị hao mòn cả về thể xác lẫn tinh thần. Tha thứ sẽ là một liều thuốc giải độc mạnh mẽ. Tha thứ được thể hiện qua nhiều hành động trong cuộc sống hằng ngày,vui vẻ nở nụ cười khi có ai đó vô tình giẫm phải chân mình,hay chẳng chấp người bạn ngồi cùng bàn hay có tính mượn đồ của mình trong giờ học…Những việc làm đó sẽ khiến cho mình đáng yêu hơn trong mắt của mọi người.Vì vậy, hãy học cách sống mà có lòng vị tha vì nó là đức tính quý báu của mỗi con người chúng ta.
Viết đoạn văn 200 chữ về lòng vị tha Viết đoạn văn về lòng vị tha Đoạn văn mẫu 1Cuộc sống sẽ trở nên ấm áp nếu chúng ta sống có tấm lòng. Có thể thấy, lòng vị tha có vai trò vô cùng quan trọng và góp phần làm cho cuộc sống trở nên đẹp đẽ hơn. Vị tha là tấm lòng rộng lượng, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua cho lỗi lầm của người khác; đồng thời người có lòng vị tha là người có tấm lòng nhân hậu với mọi người. Mỗi người cần rèn luyện cho mình đức tính vị tha, vị tha để được sống trong tình yêu thương chân thành nhất. Người có lòng vị tha thường là những người không tính toán thiệt hơn, hơn thua với người khác, sẵn sàng nhường nhịn trong một cuộc tranh đấu. Bên cạnh đó, người có lòng vị tha cũng là người sẵn sàng tha thứ với lỗi lầm của người khác với mình để tiếp tục duy trì mối quan hệ hiện tại. Vị tha đóng vai trò quan trọng, cốt yếu trong cuộc sống: Việc vị tha, tha thứ cho lỗi lầm của người khác góp phần làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn, mối quan hệ sẽ vẫn có thể duy trì được. Vị tha với người khác sẽ làm chúng ta cảm thấy thanh thản, thoải mái hơn, đồng thời chúng ta cũng được người khác yêu thương, tôn trọng hơn. Nếu tất cả con người trong xã hội không có lòng vị tha thì xã hội sẽ thiếu đi tình thương của con người, con người sẽ trở nên xa lánh nhau. Bên cạnh đó, trong xã hội vẫn có không ít người có tính ích kỷ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, để đạt được mục tiêu của mình không ngại làm chuyện xấu; lại có những người quá vị tha không biết lựa chọn đúng sai mà tha thứ cho những lỗi lầm không xứng đáng để làm khổ bản thân mình hết lần này đến lần khác. Mỗi người cần có lòng vị tha, sống rộng lượng, tha thứ cho người khác nếu bản thân cảm thấy người ta xứng đáng. Chan hòa với mọi người xung quanh, sẵn sàng cho đi yêu thương, san sẻ với người khác để thấy bản thân mình tốt đẹp hơn. Mỗi người suy nghĩ tích cực một chút, biết san sẻ, vị tha một chút thì cuộc sống này sẽ trở nên tốt đẹp hơn rất nhiều.
Đoạn văn mẫu 2Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi…” Đúng vậy, mỗi con người chỉ được sống một lần duy nhất, chúng ta hãy sống, yêu thương mọi người và có lòng vị tha để cuộc đời này ý nghĩa trọn vẹn hơn. Vị tha là tấm lòng rộng lượng, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua cho lỗi lầm của người khác; đồng thời người có lòng vị tha là người có tấm lòng nhân hậu với mọi người. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định lòng vị tha vô cùng quan trọng và là một đức tính tốt đẹp trong cuộc sống mà mỗi con người cần có. Chúng ta sẽ không tránh khỏi việc mắc sai lầm, khi được người khác vị tha, tha thứ, chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, thấy rằng việc nhận lỗi và sửa lỗi là điều vô cùng đúng đắn, tương tự như vậy, khi chúng ta vị tha với người khác tức là ta đang cho họ một cơ hội để sửa đổi, để tốt hơn. Thử tưởng tượng mà xem, nếu tất cả con người trong xã hội không có lòng vị tha thì xã hội sẽ thiếu đi tình thương của con người, con người sẽ trở nên xa lánh, lạnh nhạt với nhau, cuộc sống sẽ trở thành vô cảm. Cuộc sống rất cần biết tha thứ và nhường nhịn người khác. Nhờ biết tha thứ và độ lượng, độ lượng, cuộc sống và quan hệ giữa mọi người với nhau trở nên lành mạnh, thân ái, dễ chịu. Con người với con người hãy đối xử với nhau bằng sự dịu nhàng và yêu thương nhất có thể. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, sẵn sàng quay lưng với người khác khi họ mắc lỗi mà không cho họ cơ hội để sửa đổi; chúng ta không nên sống ích kỉ như thế. Mỗi người chỉ được sống một lần, cuộc đời đôi lúc phải phạm sai lầm thì mới rút ra bài học và hoàn thiện được bản thân, vì vậy, hãy bao dung để thấy cuộc sống này tươi đẹp hơn.
Đoạn văn mẫu 3Mỗi con người chỉ được sống một lần duy nhất trong đời, chúng ta sẽ gặp phải nhiều câu chuyện không thể lường trước được. Sẽ có lúc chúng ta mắc sai lầm và cũng có lúc người khác phạm sai lầm với ta. Chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm, thanh thản khi được người khác tha thứ cho lỗi lầm của mình cũng như chính chúng ta hãy luôn giữ cho mình lòng vị tha với người khác. Vị tha chính là tấm lòng rộng lượng, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua cho lỗi lầm của người khác gây ra cho mình dù là vô tình hay cố ý; đồng thời người có lòng vị tha là người có tấm lòng nhân hậu với mọi người. Trong cuộc sống, chúng ta hoặc người khác sẽ không tránh khỏi việc mắc sai lầm, việc vị tha, tha thứ cho lỗi lầm của người khác góp phần làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn, mối quan hệ sẽ vẫn có thể duy trì được. Bên cạnh đó, vị tha với người khác sẽ làm chúng ta cảm thấy thanh thản, thoải mái hơn, đồng thời chúng ta cũng được người khác yêu thương, tôn trọng hơn. Nếu tất cả con người trong xã hội không có lòng vị tha thì xã hội sẽ thiếu đi tình thương của con người, con người sẽ trở nên xa lánh nhau. Người có lòng vị tha thường không tính toán thiệt hơn, hơn thua với người khác, sẵn sàng nhường nhịn trong một cuộc tranh đấu. Họ cũng là người sẵn sàng tha thứ với lỗi lầm của người khác với mình để tiếp tục duy trì mối quan hệ. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn còn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, để đạt được mục tiêu của mình không ngại làm chuyện xấu; lại có những người quá vị tha không biết lựa chọn đúng sai mà tha thứ cho những lỗi lầm không xứng đáng để làm khổ bản thân mình hết lần này đến lần khác,… những người này cần bị phê phán, chỉ trích. Mỗi con người được tự lựa chọn cho mình cách sống, cách cư xử. Không một ai là hoàn hảo, nhưng khi ta biết cố gắng hoàn thiện bản thân chúng ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.
Đoạn văn mẫu 4Vị tha là sẵn sàng tha thứ, bỏ qua lỗi lầm của người khác, biết sống vì người khác. Không có gì cao quý hơn lòng vị tha của con người. Cũng không có gì khó khăn bằng việc phải vị tha cho lỗi lầm của người khác. Chính vì biết sống vị tha, xã hội mới ngày càn văn minh, tiến bộ và nhân văn. Người có lòng vị tha luôn đặt mục đích của mọi việc làm là vì người khác, không ích kỉ, vụ lợi cá nhân, cảm thông, chia sẻ và tha thứ lỗi lầm của người khác. Người không có lòng vị tha lúc nào cũng chỉ nghĩ cho mình, sống tham lam, ích kỉ, tự ràng buộc mình trong cuộc sống hẹp hòi, vị kỉ, cá nhân. Ai cũng cần có lòng vị tha bởi đó là cơ sở để hoàn thiện nhân cách con người, giúp con người xây dựng được các mối quan hệ xã hội tốt đẹp, thành công trong công việc và đời sống. Trong cuộc đời mình, ai cũng có thể xảy ra sai lầm, khi đó rất cần sự vị tha, đồng cảm, sẻ chia của người khác. Thế nhưng, vị tha không có nghĩa là sẽ tha thứ mọi lỗi lầm. Có những việc làm không thể tha thứ được. Cũng có những người ta không thể tha thứ được. Sống có lòng vị tha là phải biết đấu tranh chống lại cái xấu, kẻ xấu, bảo vệ công lí, lẽ công bằng. Khoan nhượng trước cái xấu, cái ác cũng chẳng khác gì làm việc xấu, việc ác. Cuộc sống có thể sẽ khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác nhưng cũng sẽ đẹp đẽ hơn, hạnh phúc hơn.
Đoạn văn mẫu 5“Chúng ta đầy khiếm khuyết và sai lầm; hãy để chúng ta cùng tha thứ cho sự nực cười của nhau đó là luật đầu tiên của tự nhiên” (Voltaire). Cuộc sống sẽ bớt đi những điều nực cười nếu bạn và tôi biết nuôi dưỡng cho mình lòng vị tha. Chỉ là một cái gật đầu chấp nhận lời xin lỗi, một nụ cười là một lời tha thứ sau lỗi lầm của người khác hay hi sinh vì lợi ích chung nhưng cũng đủ để xóa tan những sắc màu ma mị đang làm sầu não tâm hồn con người. Vị tha không đơn thuần là một đức tính tốt mà còn là liều thuốc chữa lành vết thương, là chìa khóa mở cánh cửa cơ hội hoàn thiện bản thân mà ta nên trao cho người đang cần.Trong lớp có học sinh học kém hơn, bạn không dè bỉu, xa lánh mà sẻ chia, giúp đỡ bạn mình học tốt. Trong tập thể có thành viên mắc lỗi, làm điều sai trái, bạn không lên án gay gắt mà ngược lại, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để giúp họ sửa sai. Chắc chắn cuộc sống chúng ta sẽ tươi đẹp hơn, tập thể vững mạnh hơn, đó cũng chính là cách bạn đang gieo trồng một hạt giống tốt lành cho tâm hồn nhân loại, cho quá trình trưởng thành của nhân cách một con người. Song vẫn còn không ít cá nhân nhỏ nhen, khép mình vào khuôn khổ của sự khắc nghiệt, như mảnh đất cằn cỗi chẳng bao giờ chịu nuôi dưỡng hạt giống nào. Giữa thế giới lung linh vạn ánh sáng nhân ái và khu vườn tăm tối với hơi thở của sự lạnh lùng, đâu sẽ là nơi hạnh phúc được lớn dần? Học cách tha thứ là học cách sống đẹp cho người và cho bản thân. Đó cũng là cách bạn tận hưởng và tận hiến giữa cuộc đời!
Đoạn văn mẫu 6Lòng vị tha là biểu hiện cao đẹp nhất của vẻ đẹp tâm hồn con người. Vậy vị tha nghĩa là gì và đóng vai trò như thế nào trong cuộc sống? Vị tha chính là sống vì người khác, không ích kỉ hay mưu lợi cá nhân với xuất phát điểm không gì khác ngoài một trái tim biết yêu thương đồng loại. Trong công việc, một con người có được đức tính này luôn đặt lợi ích tập thể lên trên tư lợi cá nhân, không lười biếng, ỷ lại hay tránh né, đùn đẩy trách nhiệm. Trong quan hệ với mọi người, họ luôn vui vẻ, hòa nhã, biết đồng cảm sẻ chia và sẵn lòng thứ tha cho lỗi lầm của kẻ khác. Bởi vậy, lòng vị tha giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Nó giúp ta tìm được sự bình an, thanh thản trong tâm hồn, giữ được cảm tình, sự tôn trọng từ những người xung quanh. Đồng thời, lòng vị tha cũng kéo người gần lại với nhau hơn, góp phần kiến tạo một xã hội lành mạnh và bác ái, nơi độc ác mưu toan không còn chỗ đứng. Và còn một điều ta luôn phải nhớ, sống vị tha không đồng nghĩa với việc nuông chiều, dung túng những thói hư tật xấu hay mượn hành động thiện nguyện để đánh bóng tên tuổi. Bởi chỉ những điều xuất phát từ sâu thẳm tâm hồn mới có thể chạm tới trái tim người khác. Mỗi chúng ta hãy học cách lắng nghe, chia sẻ và tha thứ cho người khác cũng như chính bản thân mình, để lòng vị tha có thể lan tỏa mạnh mẽ và giúp cho cuộc đời đẹp đẽ, hạnh phúc hơn.
Đoạn văn mẫu 7Vị tha là một đức tính quý giá của con người, ai có được lòng vị tha chắc hẳn sẽ được rất nhiều người yêu quý. Lòng vị tha cho thấy sự rộng lượng, của bản thân mỗi người, biết bỏ qua những sai lầm của người khác, biết tha thứ cho mọi người khi họ thật sự nhận ra sai lầm của mình. Hãy thử nghĩ xem cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao nếu không có lòng vị tha. Chắc chắn nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Bởi vì con người không biết tha thứ cho nhau, trở nên chấp nhặt. Bất kỳ một lỗi nhỏ nào cũng có thể làm cho con người ta bị ghét bỏ, mọi việc sẽ rất khó được giải quyết ổn thoả. Nhưng ngược lại, khi đã có lòng vị tha, con người với con người có thể tha thứ cho nhau những sai lầm dù là nhỏ cho đến lớn. Cuộc sống vì thế mà có ý nghĩa hơn, mỗi người chúng ta lại thêm yêu đời. Chẳng thế mà khi xưa người con gái đẹp Vũ Nương đã sống hạnh phúc bên người chồng tính tình cả ghen, đa nghi. Vũ Nương là người con gái tính đã thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp, xong nàng lại lấy phải người chồng rất hay ghen tuông, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Sống với 1 người luôn theo dõi mình từng cử chỉ, từng hành động như thể một người giám sát như vậy nhưng Vũ Nương chưa bao giờ kêu than nữa lời. Nàng luôn bỏ qua những việc làm sai trái của chồng đối với mình và ứng xử khôn khéo, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà. Đó chẳng phải là một tấm gương sáng về lòng vị tha hay sao?Tóm lại, vị tha là một điều vô cùng cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Chúng ta nên rèn luyện đức tính quý giá này để được mọi người yêu quý và kính trọng. Hơn nữa, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ dễ dàng và có ý nghĩa hơn.
Đoạn văn mẫu 8Trong cuộc sống luôn có những điều mà ta chẳng bao giờ hài lòng, có những lời nói khiến ta bị tổn thương, có những cách đối xử làm ta buồn rười rượi. Nhưng điều quan trọng là sau tất cả những điều đó, ta vẫn có lòng vị tha. Ngạn ngữ có câu: “Hãy tha thứ và hãy quên!”, nhưng phần lớn chúng ta thường cảm thấy quên dễ hơn nhiều so với việc tha thứ cho một người nào đó đã làm ta đau lòng,việc tha thứ đòi hỏi một người phải có tấm lòng nhân hậu sâu sắc,biết yêu thương mọi người và bỏ qua tất cả tội lỗi mà họ đã làm.Nhưng so với thực tế, chẳng mấy ai có thể làm được như vậy.Song nếu nhìn lại,việc tha thứ cho một người nào đó có thể khiến ta cảm thấy thật sự thanh thản,nhẹ nhõm. Nếu cứ gặm nhấm những nỗi đau và âm ỉ sự phục thù, ta sẽ bị hao mòn cả về thể xác lẫn tinh thần. Tha thứ sẽ là một liều thuốc giải độc mạnh mẽ.Tha thứ được thể hiện qua nhiều hành động trong cuộc sống hằng ngày,vui vẻ nở nụ cười khi có ai đó vô tình giẫm phải chân mình, hay chẳng chấp người bạn ngồi cùng bàn hay có tính mượn đồ của mình trong giờ học. Những việc làm đó sẽ khiến cho mình đáng yêu hơn trong mắt của mọi người. Vì vậy, hãy học cách sống mà có lòng vị tha vì nó là đức tính quý báu của mỗi con người chúng ta.
Viết đoạn văn ngắn về lòng vị tha Đoạn văn mẫu 1Vị tha nghĩa là vì người khác. Suy rộng ra đó là tấm lòng bao dung, độ lượng, không suy xét lỗi lầm của người khác. Người có lòng vị tha là người luôn hiền hòa, không bắt bẻ hay soi xét kĩ lưỡng những sai lầm của người khác nhưng lại nghiêm khắc với bản thân. Lòng vị tha xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, luôn cho người khác cơ hội để làm điều đúng đắn, thiện lương. Biểu hiện của lòng vị tha cũng rất đa dạng. Sống vị tha phải biết nhường nhịn người yếu hơn mình; giúp đỡ những người khó khăn; tha thứ cho những lỗi lầm. Lòng vị tha là một phẩm chất đáng quý, giúp con người nâng cao giá trị bản thân, cuộc sống dịu dàng, xã hội tốt đẹp hơn. Thế nhưng, không phải lúc nào cùng vị tha cho sai lầm. Có những lỗi lầm không thể tha thứ, không thể chuộc lại được. Tha thứ cho kẻ ác là tàn nhẫn với chính mình, đi ngược lại công lí. Rèn luyện và thực hành lòng vị tha trước hết phải biết nghĩ và làm cho người khác, tập đứng ở hoàn cảnh của người khác, đó chính là vị tha. Vị tha cho người ta sức mạnh. Đó không chỉ là cho người khác cơ hội, mà là cho chính mình cơ hội được nhẹ lòng, để không còn phải so đo với những thiệt tha hơn. Nhường nhịn, yêu thương, tha thứ cho chính những người thân quanh mình, giúp đỡ họ trong khó khăn, hoạn nạn, hướng đến cuộc sống tốt đẹp. Đó là bài học đầu tiên về lòng vị tha.
Đoạn văn mẫu 2Vị tha là có tinh thần chăm lo một cách vô tư đến lợi ích của người khác mà hi sinh lợi ích của cá nhân mình. Như vậy, lòng vị tha ở con người chứng tỏ một tinh thần vô cùng bao dung, nhân ái. Lòng vị tha thể hiện ở thái độ vô tư, không mưu toan tính toán khi giúp đỡ người khác làm một việc gì đó. Trong lớp có học sinh học kém hơn, bạn không dè bỉu, xa lánh mà lại gần sẻ chia, giúp đỡ bạn ấy học tốt. Trong tập thể có thành viên mắc lỗi, làm điều sai trái, bạn không lên án gay gắt mà ngược lại, bạn giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để giúp họ sửa sai. Trong những hoàn cảnh ấy, nếu bạn làm được như vậy, có thể khẳng định rằng bạn là người có lòng vị tha. Trong đời sống xã hội, ta có thể nhìn vào hoạt động tình nguyện của thế hệ thanh niên đất nước mỗi khi mùa hè đến. Họ không quản ngại gian khó đi về với vùng cao, vùng gặp khó khăn, để hòa mình với đồng bào, cùng đồng cam cộng khổ giúp đỡ họ vươn lên. Có được lòng vị tha, con người sẽ cảm thấy thanh thản trước cuộc đời bởi thấy rằng mình có ích. Hơn thế, họ còn được mọi người mến yêu, quý trọng. Những việc họ làm đã giúp thêm đẹp, thêm giàu cho xã hội. Không ai có thể kể hết giá trị của sự bình yên mà những chiến sĩ công an biên phòng đang từng ngày từng giờ thầm lặng hi sinh cho đất nước. Không ai có thể nói hết được niềm hạnh phúc, lòng quyết tâm vươn lên và sự khởi sắc trong tương lai của những người chưa có thành công, những người lầm lỡ được lòng vị tha cứu giúp. Cuộc đời này cần đến những tấm lòng dù chỉ để gió cuốn bay đi nhưng là bay đi để gieo mầm, nở hoa trên đất lạ.
Đoạn văn mẫu 3Không có gì cao thượng bằng lòng vị tha. Cuộc sống sẽ khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác. Nhưng chắc chắn cuộc sống ấy sẽ đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Biết tha thứ là chiến thắng đầu tiên đối với con giận dữ và thù hận. Lòng vị tha là hành động vì lợi ích của người khác. Vì từ xa xưa, con người là những sinh vật sống theo bầy đàn. Thế nên, chúng ta có xu hướng giúp đỡ đồng loại. Có thể hiểu đơn giản lòng vị tha là khi ta cho một ai đó cơ hội để sửa chữa một lỗi lầm trong quá khứ. Đã có những nghiên cứu chỉ ra rằng con người ta hạnh phúc hơn khi cho đi và khi ấy bộ não của họ hoạt hóa ở những khu vực báo hiệu niềm vui và phần thưởng, tương tự như khi họ ăn chocolate. Thậm chí khi ta chấp nhận tha thứ cho một ai đó thì ta đã thực hiện một hành động “vị tha”. Ở đâu đó trong thế giới này, lòng vị tha chính là sức mạnh tái sinh của con người. Lòng vị tha, chúng mạnh hơn chúng ta nghĩ. Một tù nhân có thể trở thành một người tốt sau khi ra tù hay cũng có thể trở lại thành phạm nhân đều là do chúng ta cho họ sống trong những song sắt tối tăm lạnh lẽo hay cho họ thấy rằng họ vẫn còn có giá trị.
Nghị luận 200 chữ nghị luận về lòng vị tha Đoạn văn mẫu 1Trong cuộc sống con người cần phải rèn luyện cho mình rất nhiều đức tính, một trong số đó là lòng vị tha. Vị tha có nghĩa là sống vì người khác, không ích kỷ, không vì riêng mình, không mưu lợi cá nhân. Lòng vị tha là sự hy sinh một điều gì cho ai đó không phải là bản thân mình. Lòng vị tha chính là biểu hiện cao đẹp nhất phẩm chất nhân hậu của con người. Nó không đòi hỏi gì nhiều ngoài một trái tim biết chia sẻ vui buồn, biết yêu thương đồng loại. Lòng vị tha có thể được bắt gặp khi luôn hết lòng vì người khác, sẵn sàng phần thiệt thòi về bản thân, sẵn lòng tha thứ cho những lầm lỗi của những người xung quanh. Và lòng vị tha có ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống của con người. Người có lòng vị tha sẽ chiến thắng được phần ích kỉ trong mình, để tự hoàn thiện bản thân. Bởi con người bao giờ cũng tồn tại những sự ích kỉ cho bản thân và chiến thắng bản thân bao giờ cũng là chiến thắng vẻ vang nhất. Lòng vị tha giúp ta sống bình an, thanh thản, ta không phải bận tâm về những lỗi lầm của người khác đã gây ra cho mình. Đồng thời nó còn có sức mạnh cảm hóa những người xung quanh, giúp họ sống hướng thiện. Ví dụ tiêu biểu đó chính là luật pháp, luôn có những sự khoan hồng. Người có lòng vị tha được mọi người yêu mến, nể trọng. Bởi vậy, họ thường được giúp đỡ và dễ thành công trong cuộc sống. Vì vậy, những kẻ sống thờ ơ, ích kỷ thật đáng phê phán. Bản thân mỗi người hãy biết vị tha đúng lúc, đúng chỗ để khiến cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Advertisement
Đoạn văn mẫu 2
Mỗi chúng ta muốn trở thành một công dân có ích trước hết cần phải rèn luyện cho bản thân mình một phẩm chất tốt đẹp. Và một trong những phẩm chất tốt đẹp chúng ta cần có đó là lòng vị tha. Vị tha là tấm lòng rộng lượng, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua cho lỗi lầm của người khác; đồng thời người có lòng vị tha là người có tấm lòng nhân hậu với mọi người. Trong cuộc sống, chúng ta hoặc người khác sẽ không tránh khỏi việc mắc sai lầm, việc vị tha, tha thứ cho lỗi lầm của người khác góp phần làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn, mối quan hệ sẽ vẫn có thể duy trì được. Vị tha với người khác sẽ làm chúng ta cảm thấy thanh thản, thoải mái hơn, đồng thời chúng ta cũng được người khác yêu thương, tôn trọng hơn. Nếu tất cả con người trong xã hội không có lòng vị tha thì xã hội sẽ thiếu đi tình thương của con người, con người sẽ trở nên xa lánh nhau. Người có lòng vị tha thường không tính toán thiệt hơn, hơn thua với người khác, sẵn sàng nhường nhịn trong một cuộc tranh đấu, sẵn sàng tha thứ với lỗi lầm của người khác với mình để tiếp tục duy trì mối quan hệ. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, để đạt được mục tiêu của mình không ngại làm chuyện xấu; lại có những người quá vị tha không biết lựa chọn đúng sai mà tha thứ cho những lỗi lầm không xứng đáng để làm khổ bản thân mình hết lần này đến lần khác,… những người này dần sẽ bị mọi người xa lánh. Mỗi chúng ta chỉ được sống một lần, hãy sống thật tốt, vị tha với mọi người để không phải hối tiếc về sau.
Đoạn văn mẫu 3Ai trong cuộc sống cũng đều sẽ mắc phải những sai lầm. Và trong những sai lầm đó cần lắm lòng vị tha từ những người xung quanh để có thể sửa đổi bản thân và sống tiếp. Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định: lòng vị tha có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người. Vị tha là tấm lòng rộng lượng, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua cho lỗi lầm của người khác; để người đó có cơ hội sửa đổi; hoàn thiện bản thân. Vị tha là bao dung, rộng lượng, đồng thời người có lòng vị tha là người có tấm lòng nhân hậu với mọi người. Trong cuộc sống, không ai dám khẳng định rằng mình sẽ không mắc lỗi, rằng mình hoàn hảo cả. Chúng ta dù vô tình hay cô ý thì cũng sẽ gặp phải những lỗi khó tránh khỏi. Những lỗi lầm cần lắm sự bao dung, vị tha từ người khác để bản thân có thể sửa đổi, hoàn thiện mình hơn và rút ra cho bản thân những bài học quý giá. Mỗi chúng ta ngoài việc mưu cầu lòng vị tha từ người khác thì cũng cần rèn luyện cho mình sự bao dung với những người xung quanh. Xã hội có lòng vị tha, bao dung là một xã hội tốt đẹp, nhân văn, con người biết vì nhau. Tuy nhiên, hiện nay trong cuộc sống vẫn còn có nhiều người sống với tính ích kỉ, thấy người khác mắc lỗi đành vội vàng quay lưng. Lại có những người không biết rút ra bài học cho bản thân mình sau những lỗi lầm mà coi lòng vị tha của người khác dành cho mình là điều hiển nhiên. Những người này cần xem xét và cải thiện thái độ sống của chính mình. Mỗi người sống vị tha một chút, bao dung một chút thì xã hội sẽ nhẹ nhàng hơn, tốt đẹp hơn rất nhiều. Hãy trân trọng những người vị tha và cố gắng hoàn thiện bản thân mình theo chiều hướng tốt nhất.
Đoạn văn mẫu 4Có ai đó đã từng nói rằng: “Xung đột là căn bệnh trầm trọng của nhân loại và lòng vị tha là liều thuốc duy nhất”. Quả thật, lòng vị tha chính là phẩm chất mà con người cần có được trong cuộc sống. Vị tha có nghĩa là sống vì người khác, không ích kỷ, không vì riêng mình, không mưu lợi cá nhân. Lòng vị tha là sự hy sinh một điều gì cho ai đó không phải là bản thân mình mà không kỳ vọng sẽ được ghi nhận hay sự đền đáp hoặc lợi ích dù là trực tiếp hay gián tiếp từ phía người nhận hoặc cộng đồng. Lòng vị tha chính là biểu hiện cao đẹp nhất phẩm chất nhân hậu của con người. Nó không đòi hỏi gì nhiều ngoài một trái tim biết chia sẻ vui buồn, biết yêu thương đồng loại. Người có lòng vị tha là người luôn đặt mục đích của mọi việc làm là vì người khác, vì xã hội. Nếu có vì mình cũng luôn cố gắn với lợi ích chung của mọi người. Khi làm việc luôn giành phần khó khăn về mình, không lười biếng, tránh né, đùn đẩy công việc cho người khác. Lòng vị tha sống trong ta nhưng để hiểu và sử dụng được nó có khi ta phải dùng cả đời mới được. Vậy thì ngay từ bây giờ, bằng những hành động rất nhỏ, hãy thể hiện và nuôi dưỡng lòng vị tha, đừng để một ngày nó biến mất, ta sẽ trở nên vô cảm, trái tim hóa sắt đá thì khi đó ta sẽ chẳng thể cảm nhận được cuộc sống này tươi đẹp như thế nào. Quả thật, ánh sáng của lòng vị tha có thể lan tỏa đến những nơi tăm tối nhất để xoa dịu mọi trái tim. Mỗi người hãy biết sống vị tha để luôn cảm thấy hạnh phúc và vui vẻ hơn.
Cập nhật thông tin chi tiết về Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Truyện (Dàn Ý + 4 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 10 trên website Xsye.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!